2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Trải qua quá trình xây dựng và chiến đấu, lực lượng Bộ đội biên phòng ngày một lớn mạnh, trưởng thành, phát huy vai trò lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia. Với những nhiệm vụ và trọng trách to lớn, Bộ đội Biên phòng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ an ninh trật tự, chủ quyền, biên giới quốc gia, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đối ngoại. Để quản lý thống nhất các hoạt động Biên phòng một cách hiệu quả, Chính phủ đã xem xét và đưa ra những quy định cụ thể điều chỉnh các nội dung liên quan đến biên phòng và tạo điều kiện để phát triển một cách lớn mạnh.
Trong phạm vi bài viết này, Luật Hoàng Anh sẽ trình bày nội dung việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của Bộ đội Biên phòng theo Điều 17 Luật Biên phòng Việt Nam số 66/2020/QH14 ngày 11 tháng 11 năm 2020 (Sau đây được gọi là Luật Biên phòng năm 2020).
Khoản 1 Điều 13 Luật Biên phòng Việt Nam năm 2020 quy định như sau:
“1. Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang nhân dân, thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, khu vực biên giới.”
Theo đó, khi thi hành nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
Trong đó, vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: Vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
Vật liệu nổ là sản phẩm dưới tác động của xung kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm: Thuốc nổ, phụ kiện nổ.
Công cụ hỗ trợ là phương tiện, động vật nghiệp vụ được sử dụng để thi hành công vụ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ, người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hoặc báo hiệu khẩn cấp; bao gồm: Súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, laze, lưới, súng phóng dây mồi, súng bắn đạn nhựa, nổ, cao su, hơi cay, pháo hiệu, hiệu lệnh, đánh dấu và đạn sử dụng cho các loại súng này; phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, chất gây ngứa; lựu đạn khói, lựu đạn cay, quả nổ; dùi cui điện, động vật nghiệp vụ...
Khoản 2 Điều 17 Luật Biên phòng năm 2020 quy định:
“2. Ngoài các trường hợp nổ súng quân dụng theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, khi thi hành nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng được nổ súng quân dụng vào tàu thuyền trên biển, sông biên giới, trừ tàu thuyền của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế, tàu thuyền có chở người hoặc có con tin, để dừng tàu thuyền, thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đối tượng điều khiển tàu thuyền đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ;
b) Khi biết rõ tàu thuyền chở đối tượng phạm tội, vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn;
c) Khi tàu thuyền có đối tượng đã thực hiện hành vi cướp biển, cướp có vũ trang theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của pháp luật về hình sự cố tình chạy trốn.”
Như vậy, các trường hợp cụ thể mà cán bộ, chiến sĩ Bộ đội biên phòng được nổ súng quân dụng vào tàu thuyền gồm:
Trường hợp 1: Đối tượng điều khiển tàu thuyền đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ;
Trường hợp 2: Khi biết rõ tàu thuyền chở đối tượng phạm tội, vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn;
Trường hợp 3: Khi tàu thuyền có đối tượng đã thực hiện hành vi cướp biển, cướp có vũ trang cố tình chạy trốn (hành vi vi phạm được xác định theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quy định của pháp luật về hình sự).
Theo đó, trường hợp nổ súng, cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng phải cảnh báo bằng hành động, mệnh lệnh, lời nói hoặc bắn chỉ thiên trước khi nổ súng vào tàu thuyền; phải tuân theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền khi thực hiện nhiệm vụ có tổ chức.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh