2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Nếu như nói Pháp lệnh luật sư năm 2001 là bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế luật sư ở nước ta, đưa chế định luật sư của nước ta xích gần với thông lệ quốc tế, thì Luật Luật sư được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 tiếp tục hoàn thiện chế định luật sư. Luật Luật sư ra đời với hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ góp phần nâng cao vị trí của luật sư và nghề luật sư trong xã hội, tạo thuận lợi lớn cho hoạt động hành nghề của các luật sư nhằm góp phần đắc lực hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ công lý, hội nhập và phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luật Luật sư không chỉ nâng cao vị thế của luật sư trong xã hội, mà còn nhằm đưa luật sư của nước ta từng bước lên ngang tầm với luật sư của các nước trên thế giới và trong khu vực. Trường hợp có vấn đề cần Luật sư tư vấn pháp luật, hãy GỌI NGAY tới hotline 0908308123 để được cung cấp dịch vụ luật sư giỏi UY TÍN - HIỆU QUẢ để nắm bắt các thông tin pháp lý cần thiết một cách NHANH CHÓNG nhất.
Pháp lệnh luật sư năm 2001 (thay thế Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987) là một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện thể chế về luật sư ở nước ta.
Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh luật sư, đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang phát triển nhanh về số lượng, tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề cũng từng bước được nâng cao. Tính đến tháng 6 năm 2006 tổng số luật sư trong cả nước đã là 4.032, tăng 2 lần so với tổng số luật sư có được sau hơn 10 năm thi hành Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987. Một kết quả rất quan trọng nữa là Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã tạo điều kiện thuận lợi mở rộng và phát triển hoạt động hành nghề của các luật sư. Chỉ trong thời gian chưa đầy 5 năm, 961 Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh đã được thành lập và đăng ký hoạt động.
Hoạt động luật sư trong thời gian qua không những đã đáp ứng kịp thời nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của cá nhân, tổ chức; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, mà còn góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng phải thấy rằng, trong tổ chức và hoạt động hành nghề luật sư hiện nay vẫn còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số cả nước vẫn còn quá thấp. Tính đến ngày 31/6/2006, cả nước có 4070 luật sư (trong đó có 2409 luật sư có chứng chỉ hành nghề luật sư và 1660 luật sư tập sự). Sự phát triển số lượng luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố, đặc biệt là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã gây ra sự mất cân đối lớn về số lượng luật sư giữa các vùng, miền.
Thứ hai, chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Đa số các luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề nói chung và kỹ năng tranh tụng nói riêng. Số lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có hiểu biết về kiến thức pháp luật quốc tế, có kinh nghiệm hành nghề trong môi trường quốc tế, có trình độ ngoại ngữ giỏi và hành nghề chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế còn ít.
Thứ ba, việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống, thậm chí có luật sư vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Thứ tư, nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn chưa được thực hiện tốt trong thực tiễn. Nhiều Đoàn luật sư địa phương còn hạn chế về năng lực và điều kiện thực tế để phát huy đầy đủ vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong quản lý luật sư và tổ chức hành nghề luật sư. Tổ chức luật sư toàn quốc với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong phạm vi toàn quốc để đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề đang trong quá trình chuẩn bị thành lập. Trong khi đó, Nhà nước không thể làm thay công việc của Đoàn luật sư, không thể can thiệp vào các hoạt động có tính chất tự quảncủa luật sư. Do vậy, trong quản lý hành nghề luật sư, vẫn còn tình trạng thiếu tập trung, thiếu thống nhất từ phía tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Thứ năm, tổ chức và hoạt động của luật sư Việt Nam và việc hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam, về cơ bản, vẫn đang được điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm pháp luật riêng biệt. Việc tách rời các quy định về luật sư Việt Nam và hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam không những hạn chế mối liên kết giữa luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến nguyên tắc đối xử quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý trong điều kiện đàm phán gia nhập WTO.
Thứ sáu, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội còn chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của luật sư, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển số lượng luật sư và hiệu quả của hoạt động hành nghề luật sư.
Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thì phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đủ về số lượng là một trong những nội dung quan trọng. Đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư không những phải theo định hướng phục vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói riêng, mà còn là nhân tố quan trọng hỗ trợ các quan hệ kinh tế thị trường phát triển.
Trước yêu cầu của tình hình mới, đặc biệt là khi Việt Nam đang chuẩn bị gia nhập WTO, thì việc ban hành Luật Luật sư, một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh thống nhất về hành nghề luật sư của luật sư Việt Nam và luật sư nước ngoài tại Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết.
1. Thể chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề; đồng thời hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của luật sư.
3. Phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước về luật sư và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo hướng Nhà nước chỉ làm những gì thuộc về chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, tổ chức xã hội - nghề nghiệp phát huy vai trò tự quản đối với luật sư và tổ chức hành nghề luật sư.
4. Kế thừa những quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, Nghị định số 87/2003/NĐ-CP ngày 22/7/2003 của Chính phủ về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam với những sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động luật sư.
Luật Luật sư bao gồm 9 chương với 94 Điều
Chương I- Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 9);
Chương II- Luật sư (từ Điều 10 đến Điều 21);
Chương III- Hành nghề luật sư (từ Điều 22 đến Điều 53);
Chương IV- Thù lao và chi phí; tiền lương theo hợp đồng lao động thanh toán chi phí (từ Điều 54 đến Điều 59);
Chương V- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư (từ Điều 60 đến Điều 67);
Chương VI- Hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam (từ Điều 68 đến Điều 82);
Chương VII- Quản lý hành nghề luật sư (Điều 83 và Điều 84);
Chương VII- Xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp (từ Điều 85 đến Điều 92);
Chương IX- Điều khoản thi hành (Điều 93 và Điều 94).
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
- Tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
- Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.
- Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật sư.
Luật sư có đầy đủ năng lực và được cấp giấy phép trong quyền hạn được phép thực hiện một số hoạt động sau:
- Tham gia tố tụng tại tòa với tư cách là người bào chữa cho các bị cáo, người bị hại tại các vụ án dân sự, hình sự liên quan được Pháp Luật quy định bảo vệ quyeend và lợi ích của thân chủ, doanh nghiệp, tổ chức...
- Thực hiện các tư vấn pháp luật trên nhiều lĩnh vực cho các cả nhân, tổ chức, doanh nghiệp yêu cầu
- Đại diện cá nhân, doanh nghiệp trong việc thu thấp dữ liệu, làm hồ sợ, giao nộp và các công việc liên quan khác
- Sử dụng quyền và các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của phía cá nhân, doanh nghiệp có liên quan
- Thực hiện các công việc pháp lý liên quan khác trong giới hạn quy định.
Nếu như có thắc mắc hoặc có vấn đề nào chưa rõ, đừng ngần ngại liên hệ với Công ty Luật Hoàng Anh qua số hotline: 0908 308 123 để trao đổi và làm rõ thêm.
Các luật sư của Luật Hoàng Anh là những luật sư chuyên nghiệp, có nhiều năm kinh nghiệm hành nghề, trực tiếp tiến hành thủ tục sẽ tư vấn và cung cấp dịch vụ phù hợp - hiệu quả - tiết kiệm chi phí theo yêu cầu của Quý Khách hàng.
Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói
Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:
2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
2
Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam
8
Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng
10
Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi
10
Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).
15
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;
20
Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
20
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)
30
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình
300
Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…
500
Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế
700
Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…
2000
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước
3000
Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh