Giới thiệu về Luật Trợ giúp pháp lý ?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:57:50 (GMT+7)

Bài viết Giới thiệu về Luật Trợ giúp pháp lý

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2017 (thay thế cho Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006); Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 12/7/2017 (Lệnh số 11/2017/L-CTN) Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

Sự cần thiết ban hành Luật Trợ giúp pháp lý

Ngày 29/6/2006, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy công tác trợ giúp pháp lý phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn nói riêng.

Trước yêu cầu phát triển của đất nước, triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật quan trọng mới được Quốc hội ban hành, nhiều chính sách cải cách được thông qua nhằm tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp theo định hướng của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hoạt động trợ giúp pháp lý đã bộc lộ hạn chế, bất cập sau:

Thứ nhất, diện người được trợ giúp pháp lý còn chưa đầy đủ; quy định về người được trợ giúp pháp lý chưa hợp lý, tản mạn ở nhiều văn bản do có sự thay đổi, bổ sung chính sách an sinh xã hội (Nghị định hướng dẫn Luật Trợ giúp pháp lý, các Luật có liên quan ban hành sau Luật Trợ giúp pháp lý quy định về người được trợ giúp pháp lý gồm nạn nhân bị mua bán theo Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, người khuyết tật theo Luật Người khuyết tật năm 2010, trẻ em theo Luật Trẻ em năm 2016). Hơn nữa, quy định người được trợ giúp pháp lý cũng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tiễn và tinh thần Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 và các điều ước quốc tế liên quan khác mà Việt Nam là thành viên. Mặt khác, khoảng cách trong việc tiếp cận pháp luật có sự chênh lệch, một số đối tượng khó khăn về tài chính không có điều kiện chi trả cho các dịch vụ pháp lý nhưng chưa được tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thứ hai, hoạt động trợ giúp pháp lý có bản chất là giúp đỡ các đối tượng yếu thế giải quyết các vụ việc cụ thể khi họ phải đối mặt với pháp luật chưa được quan tâm đúng mức; còn lẫn lộn với các hoạt động khác, nhiều lúc trợ giúp pháp lý được thực hiện một cách dàn trải, thậm chí mang tính chất phong trào. Một nguồn lực lớn của Nhà nước (nguồn lực con người và tài chính) dành cho các hoạt động như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý, trợ giúp pháp lý lưu động. Trong khi đó, số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý được thực hiện bằng các hình thức như tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật tại trụ sở và tư vấn tiền tố tụng là những yêu cầu thiết thực và đúng bản chất của trợ giúp pháp lý thì còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn.

Thứ ba, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý nhiều lúc còn chưa được bảo đảm; chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý chưa được xã hội đánh giá cao, chưa ngang bằng với dịch vụ pháp lý có thu phí do luật sư cung cấp. Chất lượng một số vụ việc tham gia tố tụng còn yếu, chưa có nhiều vụ việc trợ giúp pháp lý được thực hiện từ giai đoạn điều tra hình sự, vụ việc trợ giúp pháp lý tố tụng dân sự, tố tụng hành chính còn khá hạn chế; cơ chế quản lý chất lượng, việc kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý chưa được chú trọng, còn hình thức, hiệu quả chưa cao.

Hoạt động trợ giúp pháp lý chưa chuyên nghiệp; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý chưa tương đương với luật sư trong khi dịch vụ mà họ cung cấp không khác so với luật sư là chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn và thông lệ quốc tế (chưa có quy định phải trải qua thời gian tập sự trợ giúp pháp lý và kiểm tra kết quả tập sự trợ giúp pháp lý); tiêu chuẩn, điều kiện của cộng tác viên trợ giúp pháp lý khác (ngoài luật sư) còn thấp, chưa đồng đều. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện với tư cách là lực lượng chuyên trách còn thấp (chiếm khoảng 30% tổng số vụ việc tham gia tố tụng), vẫn còn Trợ giúp viên pháp lý thiếu kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề, lúng túng khi tham gia tố tụng.

Thứ tư, thực tế vẫn còn hiện tượng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trợ giúp pháp lý do thiếu nguồn lực thực hiện (thiếu luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý có kinh nghiệm để giải quyết vụ việc hoặc thiếu kinh phí chi trả cho vụ việc), nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các tỉnh chưa tự cân đối ngân sách nên vẫn bỏ sót người được trợ giúp pháp lý có nhu cầu. Trong khi đó, quy định của pháp luật hiện hành chưa có cơ chế điều phối nguồn lực giữa các địa phương, do vậy quyền được trợ giúp pháp lý của một bộ phận người dân chưa được bảo đảm trên thực tế.

Thứ năm, tổ chức bộ máy trợ giúp pháp lý còn cồng kềnh, hiệu quả huy động sự tham gia của xã hội còn hạn chế: Bộ máy, tổ chức của một số Trung tâm còn cồng kềnh, nhiều Chi nhánh được thành lập nhưng thiếu nguồn lực bảo đảm hoặc kết quả hoạt động không cao; việc đầu tư kinh phí bảo đảm cho công tác trợ giúp pháp lý chưa tương xứng với nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra, hiệu quả sử dụng kinh phí của các tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước trong thời gian qua chưa hợp lý. Còn thiếu các chính sách ưu đãi, hỗ trợ nên chưa tạo được động lực cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội thực hiện dịch vụ trợ giúp pháp lý (như chưa có cơ chế hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý …), do đó việc huy động các nguồn lực xã hội tham gia trợ giúp pháp lý còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Thứ sáu, quy trình, thủ tục tiếp nhận và thực hiện trợ giúp pháp lý chưa tạo thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý; chưa ứng dụng công nghệ thông tin; chưa quy định thời hạn trả lời yêu cầu trợ giúp pháp lý; việc tiếp nhận yêu cầu trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác chưa được điều chỉnh ở văn bản luật. Mặt khác, quy định thời hạn cử người thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng chưa bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý; chưa có quy định giảm bớt các thủ tục hành chính đối với những trường hợp khẩn cấp phải được trợ giúp pháp lý ngay (như người bị bắt theo Bộ luật Tố tụng hình sự).

Mục tiêu chính sách, quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý

1. Mục tiêu chính sách

Khắc phục hạn chế, bất cập trong hoạt động trợ giúp pháp lý; đồng bộ, thống nhất với Hiến pháp năm 2013 và các Luật được Quốc hội ban hành gần đây để phát triển bền vững công tác trợ giúp pháp lý; sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước; nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý; bảo đảm sự hội nhập quốc tế, nội luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

2. Các quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý

Luật Trợ giúp pháp lý được xây dựng dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau:

Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, dân tộc và quan điểm về quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn phát triển mới;

Thứ hai, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các luật có liên quan, nhất là các bộ luật, luật về tố tụng, tổ chức bộ máy và ngân sách;

Thứ ba, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm; bảo đảm chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý theo hướng chuẩn hóa đội ngũ thực hiện trợ giúp pháp lý, nâng cao các điều kiện, tiêu chuẩn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý; không thu hút những người không đủ tiêu chuẩn thực hiện trợ giúp pháp lý; huy động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý tự nguyện;

Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, tinh gọn tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý của Nhà nước; Nhà nước bảo đảm tính bền vững của công tác trợ giúp pháp lý theo hướng kiểm soát chặt chẽ chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, đề cao hiệu quả sử dụng ngân sách và khuyến khích sự đóng góp, hỗ trợ tài chính của xã hội cho hoạt động trợ giúp pháp lý;

Thứ năm, nghiên cứu luật hóa một số định hướng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025; kế thừa các quy định còn phù hợp và khắc phục bất cập của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006;

Thứ sáu, luật hóa những quy định từ văn bản dưới luật mà thực tiễn áp dụng có kết quả tích cực; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, tiếp tục nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Bố cục của Luật Trợ giúp pháp lý

Luật Trợ giúp pháp lý được bố cục thành 8 chương, 48 Điều (giảm 04 Điều):

- Chương I: Những quy định chung gồm 6 Điều (từ Điều 1 đến Điều 6) gồm các quy định về phạm vi điều chỉnh, khái niệm trợ giúp pháp lý, nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý, chính sách của Nhà nước về trợ giúp pháp lý, nguồn tài chính cho công tác trợ giúp pháp lý, các hành vi bị nghiêm cấm. 

- Chương II: Người được trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý gồm 3 Điều (từ Điều 7 đến Điều 9) gồm các quy định diện người được trợ giúp pháp lý, quyền, nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý.

- Chương III: Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý gồm 7 Điều (từ Điều 10 đến Điều 16) quy định về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý, đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, chấm dứt thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.

- Chương IV: Người thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý gồm 9 Điều (từ Điều 17 đến Điều 25) quy định về người thực hiện trợ giúp pháp lý, quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trợ giúp pháp lý, tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý, tập sự trợ giúp pháp lý, bổ nhiệm, cấp thẻ, miễn nhiệm và thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cấp lại thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, các trường hợp không được tiếp tục thực hiện hoặc từ chối thực hiện trợ giúp pháp lý.

- Chương V: Phạm vi, lĩnh vực, hình thức và hoạt động trợ giúp pháp lý gồm 14 Điều (từ Điều 26 đến Điều 39)  quy định về phạm vi thực hiện trợ giúp pháp lý, lĩnh vực, hình thức trợ giúp pháp lý, địa điểm tiếp người được trợ giúp pháp lý, yêu cầu trợ giúp pháp lý, thụ lý vụ việc trợ giúp pháp lý, tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, phối hợp xác minh vụ việc trợ giúp pháp lý, chuyển yêu cầu trợ giúp pháp lý, kiến nghị trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trường hợp không tiếp tục thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, lập; lưu trữ hồ sơ vụ việc.

- Chương VI: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với hoạt động trợ giúp pháp lý gồm 5 Điều (từ Điều 40 đến Điều 44)  quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý trong tố tụng và các cơ quan có liên quan, của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật.

- Chương VII: Giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp gồm 02 Điều (Điều 45 và Điều 46) quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp.

- Chương VIII: Điều khoản thi hành gồm 02 Điều (Điều 47 và Điều 48) quy định về chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư