Nguyên tắc tương trợ tư pháp

Thứ ba, 31/01/2023, 17:00:34 (GMT+7)

Bài viết sau đây trình bày về nguyên tắc tương trợ tư pháp

Có thể thấy trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, trên lãnh thổ của mỗi quốc gia ngày càng xuất hiện nhiều người nước ngoài đến cư trú, làm ăn và sính sống. Trong quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức nước ngoài với các cá nhân, tổ chức tỏng nước đã làm phát sinh các tranh chấp, yêu cầu cần được giải quyết kịp thời. Để tòa án mỗi nước giải quyết tốt những vụ việc, vụ án có yếu tố nước ngoài đòi hỏi có sự tương trợ, giúp đỡ của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Vì vậy tương trợ tư pháp là đòi hỏi tất yếu, khách quan của sự phát triển ngày càng mạnh mẽ về nhiều mặt trong quan hệ giữa các quốc gia cũng như tòa án của các nước. Nó bảo đảm cho việc xét xử, thi hành án đươc thực hiện một cách hiệu quả từ đó giúp bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Vậy tương trợ tư pháp là gì? Nguyên tắc thực hiện tương trợ tư pháp được quy định như thế nào? Hãy cùng Luật Hoàng Anh tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Tương trợ tư pháp là gì?

Trên cơ sở quy định pháp luật trong nước, các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và thực tiện tương trợ tư pháp với các nước có thể thấy tương trợ tư pháp tại Việt Nam được hiểu như sau:

Tương trợ tư pháp là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các nước khác nhau trợ giúp lẫn nhau thực hiện các hành vi tố tụng tư pháp riêng bệt theo những trình tự, thủ tục, thể thức nhất định để thi hành pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, cá nhân mỗi nước trên lãnh thổ của nhau, thúc đầy phát triển, quan hệ hợp tác quốc tế.

Nguyên tắc tương trợ tư pháp

Điều 4 Luật Tương trợ tư pháp 2007 quy định về nguyên tắc tương trợ tư pháp như sau:

Thứ nhất, Tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong hoạt động tương trợ tư pháp.

Thứ hai, Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. Theo đó, nguyên tắc có đi có lại là một tập quán quan trọng và phổ biến. Nguyên tắc này có ưu thế là trực tiếp giải quyết nhanh chóng yêu cầu của cả hai bên nhưng phải thực hiện trên cơ sở thiện chí, đôi bên cùng hỗ trợ  nhua, cùng có lợi. Nguyên tắc có đi có lại được hướng dẫn cụ thể tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC như sau:

- Áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam:

+ Trường hợp Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự mà giữa Việt Nam và nước đó chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về dân sự hoặc chưa có thỏa thuận hoặc chưa có tiền lệ về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại đối với các nội dung liên quan thì Tòa án cần có công văn gửi Bộ Tư pháp đề nghị áp dụng nguyên tắc có đi có lại kèm theo hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự.

+ Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Bộ Tư pháp gửi công văn kèm hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự đề nghị Bộ Ngoại giao xem xét, quyết định việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài áp dụng nguyên tắc có đi có lại.

+ Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. Bộ Ngoại giao xem xét và đưa ra một trong các quyết định quy định tại các điểm d hoặc đ khoản 1 Điều này. Đối với trường hợp cần thiết phải lấy ý kiến của Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại thì thời hạn này không quá hai mươi ngày.

+ Trường hợp quyết định đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài áp dụng nguyên tắc có đi có lại thì Bộ Ngoại giao gửi hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài kèm theo Công hàm của Bộ Ngoại giao đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Trong Công hàm cần đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có văn bản trả lời chính thức về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam.

+ Trường hợp quyết định không đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài áp dụng nguyên tắc có đi có lại thì Bộ Ngoại giao gửi trả lại hồ sơ cho Bộ Tư pháp và nêu rõ lý do.

+ Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài gửi hồ sơ đề nghị áp dụng nguyên tắc có đi có lại cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.

+ Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được trả lời chính thức của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài gửi văn bản thông báo về Bộ Ngoại giao. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Bộ Ngoại giao có trách nhiệm thông báo về việc này cho Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao biết và phối hợp.

+ Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài được yêu cầu tương trợ tư pháp đồng ý áp dụng nguyên tắc có đi có lại với những điều kiện kèm theo, thì Bộ Ngoại giao xem xét, quyết định trên cơ sở tham khảo ý kiến với Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao. Thủ tục thống nhất ý kiến được thực hiện tương tự như quy trình xem xét, quyết định việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài quy định tại khoản 2 Điều này.

- Áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài:

+ Trường hợp Bộ Ngoại giao nhận được đề nghị của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự mà giữa Việt Nam và nước đó chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về dân sự hoặc chưa có thỏa thuận hoặc chưa có tiền lệ về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại đối với các nội dung liên quan. Bộ Ngoại giao gửi công văn, kèm theo hồ sơ liên quan (nếu có), đề nghị Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao phối hợp xem xét việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại.

+ Trong thời hạn mười ngày làm việc kể từ ngày nhận được công văn của Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến bằng văn bản về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại trên cơ sở các căn cứ quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch này hoặc hai mươi ngày đối với trường hợp đặc biệt.

+ Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ khi nhận được ý kiến của Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao xem xét, quyết định việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại và trả lời bằng văn bản cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài có yêu cầu và gửi một bản sao văn bản đó cho Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao để phối hợp. Trường hợp Bộ Ngoại giao quyết định đồng ý áp dụng nguyên tắc có đi có lại thì trên cơ sở hồ sơ đã gửi (nếu có), Bộ Tư pháp làm thủ tục tiếp nhận, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định tại Điều 15 Luật Tương trợ tư pháp và điểm a khoản 3 Điều 20 Thông tư liên tịch này.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư