2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Ngày 20 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Giám định tư pháp. Ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật Giám định tư pháp và luật sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
Sau hơn 7 năm thi hành Luật giám định tư pháp, công tác giám định tư pháp đã đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, Luật này cũng đã bộc lộ nhiều bất cập trước những yêu cầu mới của đời sống xã hội, của hoạt động tố tụng. Trước yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp và đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư pháp đã được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 10 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2021.
Căn cứ theo Điều 1 của Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 ngày 20 tháng 6 năm 2012, được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp số 56/2020/QH14 ngày 10 tháng 06 năm 2020 (Gọi tắt là Luật Giám định tư pháp năm 2012 sửa đổi, bổ sung năm 2020), đã quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật Giám định tư pháp như sau:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về giám định viên tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; hoạt động giám định tư pháp; chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.”
Từ quy định trên, có thể thấy Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các nội dung sau:
+ Thứ nhất, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về giám định viên tư pháp.
+ Thứ hai, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về tổ chức giám định tư pháp.
+ Thứ ba, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.
+ Thứ tư, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về hoạt động giám định tư pháp.
+ Thứ năm, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp.
+ Thứ sáu, Luật Giám định tư pháp điều chỉnh các quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.
Ngoài ra, phạm vi giám định tư pháp năm 2020 cũng đã được mở rộng hơn so với phạm vi giám định tư pháp năm 2012. Cụ thể như sau:
Theo Luật Giám định tư pháp năm 2012:
“Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này.”
Quy định này thể hiện hoạt động giám định tư pháp được thực hiện theo quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng kể từ khi có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc yêu cầu của “người yêu cầu giám định”. Kết quả giám định tư pháp là nguồn chứng cứ phục vụ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự (điểm d khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khoản 5 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, khoản 5 Điều 81 Luật Tố tụng hành chính năm 2015).
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự, nhiều vụ việc cần trưng cầu giám định trước khi khởi tố vụ án và kết luận giám định đó được sử dụng làm căn cứ khởi tố, điều tra và giải quyết vụ án, do đó, nếu như quy định của Luật năm 2012 thì không đáp ứng yêu cầu này (… chỉ liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự…). Vì vậy, khoản 1 Điều 2 Luật năm 2012 đã bổ sung cụm từ “khởi tố” trước cụm từ “điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự…”, cụ thể là:
“Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”.
Như vậy, để bảo đảm tính thống nhất với quy định của pháp luật về tố tụng và đáp ứng nhu cầu giám định, phạm vi giám định tư pháp đã được mở rộng theo hướng giám định tư pháp được trưng cầu, thực hiện ngay từ giai đoạn “khởi tố”, thay vì từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự như quy định hiện hành.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh