2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Cùng chuyên mục
Luật Viễn thông số 41/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23 tháng 11 năm 2009. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2010. Luật quy định về hoạt động viễn thông, bao gồm đầu tư, kinh doanh viễn thông; viễn thông công ích; quản lý viễn thông; xây dựng công trình viễn thông; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động viễn thông.
Vậy, Luật Viễn thông năm 2009 so với Pháp lệnh bưu chính, viễn thông số 43/2002/PL-UBTVQH10 có những nội dung mới nào ?
Trên thực tế, mặc dù cơ sở hạ tầng viễn thông Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển rất nhanh, song quy mô và sự phát triển bền vững so với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới vẫn còn nhiều hạn chế. Một bộ phận người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo vẫn chưa được tiếp cận với các dịch vụ viễn thông. Chất lượng và giá cước một số dịch vụ có nơi, có lúc còn chưa đảm bảo và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Để phát triển mạng viễn thông rộng khắp cả nước đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Việt Nam vẫn cần những nguồn đầu tư rất lớn để phát triển mạng viễn thông quốc gia. Vì vậy việc huy động, khuyến khích mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thành phần kinh tế tư nhân tham gia phát triển hạ tầng là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó việc chỉ cho các doanh nghiệp Nhà nước tham gia xây dựng hạ tầng mạng, một mặt sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư và tăng rủi ro kinh doanh vốn nhà nước trong lĩnh vực này do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Nhà nước với nhau, mặt khác việc mở rộng cho các thành phần kinh tế khác tham gia cung cấp hạ tầng mạng cũng là yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO với cam kết đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc gia nhập thị trường viễn thông.
Về quan điểm, Đảng và Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của đất nước, trong đó có viễn thông. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định: “xoá bỏ mọi rào cản tâm lý xã hội và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển không hạn chế quy mô ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng khẳng định “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế” và “thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế; khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng”. Chỉ thị số 58 của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin cũng yêu cầu các cơ quan nhà nước xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm “phát huy nội lực, thúc đẩy cạnh tranh, tạo mọi điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển viễn thông và Internet”.
Chính vì vậy, Luật Viễn thông đã quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam đều được tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông cũng như thiết lập hạ tầng mạng viễn thông (khoản 23 Điều 3).
Với vai trò là ngành kinh tế dịch vụ kỹ thuật thuộc cơ sở hạ tầng quốc gia như các ngành giao thông, điện, nước, v.v... viễn thông gắn chặt với các hoạt động kinh tế xã hội khác và nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin thiết yếu của mọi người dân. Bên cạnh đó viễn thông cũng là công cụ phục vụ trực tiếp sự chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp đồng thời có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và là hạ tầng để truyền tải thông tin đại chúng, đặc biệt là lĩnh vực phát thanh, truyền hình và Internet (báo nói, báo hình, báo điện tử). Song song với việc mở cửa thị trường cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông, kể cả việc thiết lập hạ tầng mạng, đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý viễn thông và đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường, theo đó:
- Luật Viễn thông giao Thủ tướng Chính phủ, tuỳ theo từng thời kỳ, quyết định việc Nhà nước tiếp tục nắm quyền kiểm soát thông qua việc nắm cổ phần chi phối trong một số doanh nghiệp viễn thông chủ lực (VNPT, VIETTEL v.v...) có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn bộ mạng viễn thông quốc gia và ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của đất nước (khoản 1 Điều 17). Xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện các mạng viễn thông chuyên dùng phục vụ chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp trên cơ sở bóc tách rõ chức năng phục vụ chính trị với sản xuất kinh doanh để đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong quá trình mở cửa thị trường. Đây là các yếu tố quan trọng để thúc đẩy đa sở hữu trong các doanh nghiệp viễn thông và hình thành một thị trường viễn thông được mở cửa cạnh tranh hoàn toàn, bình đẳng và đúng pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết của Việt Nam trong WTO, nhưng vẫn giữ được vai trò kiểm soát, điều tiết của nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động viễn thông. Quan điểm chung của Đảng và Nhà nước ta cũng khẳng định: “thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối” và “Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh vực thiết yếu bảo đảm những cân đối lớn của nền kinh tế”.
- Tăng cường công tác thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực viễn thông. Đây cũng là yêu cầu của WTO với mục đích tổ chức công tác thực thi pháp luật một cách chặt chẽ, hiệu quả nhưng công khai, minh bạch, nhanh chóng và công bằng nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng khi mọi thành phần kinh tế tham gia thị trường viễn thông. Trên thế giới việc phân định rõ hoạt động của cơ quan thực thi pháp luật (Independent regulator - Cơ quan quản lý viễn thông độc lập) với cơ quan hoạch định chính sách (policy maker) được 147 nước trong tổng số gần 200 nước thành viên của Liên minh Viễn thông Quốc tế - ITU áp dụng. Để đảm bảo yêu cầu cam kết của Việt nam theo tài liệu tham chiếu trong hiệp định viễn thông cơ bản của WTO, Luật Viễn thông đã tăng cường công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực viễn thông trên cơ sở thành lập Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông để quản lý thị trường và nghiệp vụ viễn thông (Điều 10).
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động quản lý viễn thông và đảm bảo quyền, lợi ích của người sử dụng dịch vụ viễn thôn
Minh bạch và công khai hóa việc cấp phép viễn thông, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm thông qua việc bỏ bớt các thủ tục về đăng ký, thẩm tra dự án đầu tư (khoản 4, 5 Điều 18), danh mục các dịch vụ Nhà nước quy định giá cước, chuyển từ việc cấp chứng nhận sang tự công bố chất lượng dịch vụ v.v. Luật Viễn thông xây dựng trên cơ sở Nhà nước đưa ra quy định, các doanh nghiệp tự quản lý và Nhà nước chỉ tiến hành thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp xem có thực hiện đúng quy định hay không. Trong trường hợp có mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp về các nội dung nghiệp vụ chuyên sâu về thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ viễn thông, Cơ quan quản lý chuyên ngành về viễn thông sẽ là người trọng tài công khai, minh bạch theo đúng thông lệ quốc tế và cam kết gia nhập WTO của Việt Nam.
Tài nguyên viễn thông (tần số, kho số, tên miền, địa chỉ Internet) là dạng tài nguyên có giá trị và trong nhiều trường hợp là tài nguyên quý hiếm, hữu hạn, mang tính thương mại cao và tổng số nguồn tài nguyên này không đủ khả năng phân bổ theo nhu cầu sử dụng. Trên thế giới việc phân bổ nguồn tài nguyên viễn thông này được thực hiện thông qua nhiều hình thức như cấp trực tiếp, đấu giá, thi tuyển. Đặc biệt là đối với nguồn tài nguyên như các băng tần số thương mại, có khả năng sinh lợi nhuận cao (ví dụ băng tần 3G) thì đa số các nước áp dụng hình thức thi tuyển hoặc đấu giá, qua đó Nhà nước có thể thu được hàng trăm triệu thậm chí hàng chục tỷ USD như tại Tây Âu, Bắc Mỹ.
Để khắc phục các tồn tại về quản lý tài nguyên viễn thông thì việc áp dụng các cơ chế thị trường sau đây đối với quản lý tài nguyên viễn thông là hết sức cần thiết:
- Phân bổ tài nguyên viễn thông, đặc biệt là đối với các băng tần số mang tính thương mại cao sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua các hình thức thi tuyển, đấu giá;
- Cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng tài nguyên viễn thông có được thông qua đấu giá;
- Thực hiện đền bù khi Nhà nước giải phóng tài nguyên viễn thông theo quy hoạch.
Do đó, để tăng cường hiệu quả sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet, ngoài hình thức phân bổ trực tiếp theo nguyên tắc “đến trước, cấp trước”, Luật Viễn thông đã quy định thêm các hình thức phân bổ thi tuyển, đấu giá đối với các tài nguyên viễn thông có giá trị thương mại cao, nhu cầu sử dụng vượt quá khả năng phân bổ (khoản 2 Điều 48), đồng thời cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet có được thông qua đấu giá (Điều 49); thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi kho số viễn thông, tài nguyên Internet theo quy hoạch hoặc phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh (khoản 4 Điều 50).
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 chủ yếu điều chỉnh các quy định về kỹ thuật, nghiệp vụ viễn thông trong khi các quy định về thị trường, về hoạt động kinh doanh viễn thông chưa được thể hiện rõ nét trong khi một số quốc gia có một Luật riêng về Kinh doanh viễn thông (Telecommunication Business Act). Để khắc phục hạn chế này của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 cũng như để đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế Luật Viễn thông đã quy định một chương (Chương II) về Kinh doanh viễn thông. Các quy định tại chương này về doanh nghiệp viễn thông; đầu tư trong viễn thông; cạnh tranh trong kinh doanh viễn thông; sở hữu trong doanh nghiệp viễn thông; v.v... sẽ tiếp tục thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh viễn thông trong môi trường bình đẳng, công bằng, minh bạch theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Riêng đối với việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực viễn thông, dự án Luật quy định áp dụng theo lộ trình Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO.
Cũng như hầu hết các nước đang phát triển, song song với việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh viễn thông theo cơ chế thị trường thì Nhà nước cần có chính sách, cơ chế nhằm bảo đảm việc cung cấp dịch vụ viễn thông thiết yếu đến mọi người dân, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng xa bởi vì việc kinh doanh tại các địa bàn này không bảo đảm đủ bù đắp được chi phí và phát sinh lợi nhuận theo cơ chế thị trường. Tính chất đặc thù của lĩnh vực viễn thông thể hiện ở chỗ cũng chỉ có các doanh nghiệp viễn thông mới triển khai cung cấp được dịch vụ tại các vùng sâu, vùng xa này đồng thời về cơ bản, Nhà nước không sử dụng nguồn vốn ngân sách đối với hoạt động này mà sử dụng nguồn tài chính do chính các doanh nghiệp viễn thông đóng góp từ khoản lợi nhuận do kinh doanh các dịch vụ viễn thông khác mang lại. Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, bắt đầu hoạt động từ năm 2005 và hiện đang hoạt động có hiệu quả. Khái niệm dịch vụ viễn thông công ích không phải là dịch vụ hành chính công mà là một trong các dịch vụ viễn thông do doanh nghiệp viễn thông triển khai thực hiện tại các vùng khó khăn do Nhà nước chỉ định, với một tính chất đặc thù là ban đầu có thể không sinh lợi nhưng dần dần về sau sẽ phát sinh lợi nhuận. Hiện nay Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam đang hoạt động tốt, đóng góp phần quan trọng vào việc phát triển phổ cập dịch vụ cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ viễn thông giữa các vùng, miền, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và góp phần đảm bảo an ninh, quốc phòng (trong thời gian qua Quỹ đã huy động được trên 2.800 tỷ đồng để phát triển trên 1,8 triệu thuê bao điện thoại cố định, 39 nghìn thuê bao Internet và duy trì trên 6.000 điểm truy nhập điện thoại và Internet công cộng tại trên 4.000 xã ở các vùng khó khăn hoặc có mật độ điện thoại, Internet thấp).
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 đã quy định về cung cấp dịch vụ viễn thông công ích như các loại dịch vụ viễn thông công ích; thực hiện nghĩa vụ cung cấp dịch vụ viễn thông công ích; quản lý việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích… Kế thừa các quy định của Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông năm 2002 về cung cấp dịch vụ viễn thông công ích và để tiếp tục thúc đẩy việc phổ cập các dịch vụ viễn thông đến mọi người dân trên cả nước nhằm rút ngắn khoảng cách về sử dụng dịch vụ viễn thông giữa các vùng, miền và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cũng như đảm bảo an ninh, quốc phòng, Luật Viễn thông đã quy định một chương (Chương III) về Viễn thông công ích. Theo đó, Luật đã quy định các nội dung về hoạt động viễn thông công ích; bảo đảm thực hiện hoạt động viễn thông công ích; Quỹ dịch vụ viễn thông công ích. Ngoài các dịch vụ viễn thông công ích tự điều tiết trong ngành viễn thông thông qua Quỹ dịch vụ viễn thông công ích, các nhiệm vụ công ích khác do Nhà nước đặt hàng để các doanh nghiệp viễn thông triển khai thì Nhà nước sử dụng nguồn vốn từ ngân sách để chi trả cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường.
Bên cạnh những mặt tích cực của việc phát triển viễn thông nói chung và phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông nói riêng trong thời gian vừa qua thì việc phát triển hạ tầng viễn thông nhất là phát triển bền vững hạ tầng viễn thông cũng đã bộc lộ những bất cập cần được khắc phục, điều chỉnh và có biện pháp quản lý kịp thời như vấn đề quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông, công trình viễn thông; vấn đề sử dụng chung cơ sở hạ tầng viễn thông.v.v… Luật đã quy định một chương (Chương IX) về Công trình viễn thông. Theo đó quy hoạch công trình viễn thông được xác định là một bộ phận quan trọng phải có trong quy hoạch xây dựng các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong đầu tư xây dựng và thuận tiện cho việc cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông. Đồng thời Luật cũng khuyến khích các biện pháp đảm bảo mỹ quan đô thị, khu dân cư trong phát triển hạ tầng mạng viễn thông như ngầm hóa mạng cáp viễn thông tại các khu đô thị thông qua việc giao cho Ủy ban nhân dân các địa phương xây dựng quy hoạch các công trình viễn thông thụ động (nhà, trạm, công bể cáp, cột ăng ten…) gắn với quy hoạch xây dựng tại các địa phương. Luật cũng thúc đẩy việc sử dụng chung cơ sở hạ tầng giữa các ngành như viễn thông, điện lực, giao thông cũng như việc tăng cường sử dụng chung công trình viễn thông giữa các doanh nghiệp viễn thông.
Luật Hoàng Anh
Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói
Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:
2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
2
Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam
8
Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng
10
Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi
10
Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).
15
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;
20
Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)
20
Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)
30
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình
300
Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…
500
Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế
700
Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…
2000
Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước
3000
Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh