Chủ thể và căn cứ thực hiện hoạt động xác định mức độ khuyết tật của người khuyết tật như thế nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:57:11 (GMT+7)

Chủ thể và căn cứ thực hiện hoạt động xác định mức độ khuyết tật của người khuyết tật

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Mức độ khuyết tật của người khuyết tật

Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 ngày 17/06/2010, sửa đổi năm 2013, có 03 mức độ khuyết tật:

- Người khuyết tật đặc biệt nặng: Là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn.

- Người khuyết tật nặng: Là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc.

- Người khuyết tật nhẹ: Là người khuyết tật không thuộc hai trường hợp trên

Để xác định một người thuộc nhóm khuyết tật đặc biệt nặng, khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật nhẹ thì cần phải thực hiện theo đúng quy trình xác định mức độ khuyết tật.

Các chủ thể thực hiện giám định, xác định mức độ khuyết tật

Hội đồng xác định mức độ khuyết tật

Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện xác định mức độ khuyết tật cho các đối tượng đề nghị xác định mức độ khuyết tật. Tức trong tất cả các trường hợp, chủ thể đầu tiên thực hiện hoạt động xác định mức độ khuyết tật luôn là Hội đồng xác định mức độ khuyết tật. Trong trường hợp Hội đồng giám định y khoa thực hiện hoạt động xác định khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày 01/06/2012, thì Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định y khoa, quyết định mức độ khuyết tật của người được giám định.

Hội đồng giám định y khoa

Theo Khoản 2 Điều 15 Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 ngày 17/06/2010, sửa đổi năm 2013, Hội đồng giám định y khoa thực hiện xác định mức độ khuyết tật trong 03 trường hợp sau:

- Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không đưa ra được kết luận về mức độ khuyết tật

- Người khuyết tật hoặc người đại diện hợp pháp của người khuyết tật không đồng ý với kết luận của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật

- Có bằng chứng xác thực về việc xác định mức độ khuyết tật của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật không khách quan, chính xác

Theo đó, đây đều là các trường hợp Hội đồng xác định mức độ khuyết tật đã thực hiện hoạt động xác định mức độ khuyết tật, nhưng không thể xác định mức độ khuyết tật hoặc có kết luận về mức độ khuyết tật của đối tượng đề nghị xác định, nhưng có dấu hiệu không đúng. Tức là, Hội đồng giám định y khoa chỉ là chủ thể thứ hai thực hiện xác định mức độ khuyết tật. Trong trường hợp Hội đồng giám định y khoa chỉ thực hiện xác định khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động trước ngày 01/06/2012, thì Hội đồng giám định y khoa không được tự đưa ra kết luận về mức độ khuyết tật mà kết luận của Hội đồng giám định y khoa chỉ có giá trị là căn cứ để Hội đồng xác định mức độ khuyết tật ra quyết định về mức độ khuyết tật.

Căn cứ xác định mức độ khuyết tật

Đối với trường hợp Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thực hiện toàn bộ hoạt động xác định mức độ khuyết tật

Hội đồng xác định mức độ khuyết tật căn cứ vào 02 yếu tố sau để xác định mức độ khuyết tật của người khuyết tật:

- Quy định của pháp luật về phân loại tật và mức độ khuyết tật của người khuyết tật. Cụ thể: Các dạng tật và mức độ khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật như thế nào?

- Quan sát trực tiếp người khuyết tật thông qua thực hiện hoạt động đơn giản phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày: Thực hiện kiểm tra, quan sát với đúng đối tượng, người khuyết tật cần được xác định mức độ khuyết tật một cách trực tiếp.

- Sử dụng bộ câu hỏi theo tiêu chí y tế, xã hội và phương pháp khác theo quy định (Bộ câu hỏi được Bộ Y tế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thông qua)

Đối với trường hợp Hội đồng giám định y khoa thực hiện xác định mức độ khuyết tật

Hội đồng giám định y khoa căn cứ vào các mức được quy định theo pháp luật để xác định mức độ khuyết tật, kết luận về khả năng tự phục vụ, mức độ suy giảm khả năng lao động, và đưa ra kết luận mức độ khuyết tật dựa trên các căn cứ này.

Theo Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/04/2012 của Chính phủ, Hội đồng xác định mức độ khuyết tật đưa ra quyết định cuối cùng dựa trên các căn cứ sau trong trường hợp Hội đồng giám định y khoa có kết luận trước ngày 01/06/2012.

- Người khuyết tật đặc biệt nặng đối với các trường hợp được Hội đồng giám định y khoa kết luận không có khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên

- Người khuyết tật nặng khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%

- Người khuyết tật nhẹ khi được Hội đồng giám định y khoa kết luận có khả năng tự phục vụ sinh hoạt hoặc suy giảm khả năng lao động dưới 61%

Xem thêm: Tổng hợp bài viết về Luật người khuyết tật

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư