2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Trợ giúp xã hội được hiểu là sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng đồng xã hội đối với những người có hoàn cảnh khó khăn mà bản thân họ không tự khắc phục được. Chăm sóc, nuôi dưỡng tại cộng đồng là một trong các hình thức trợ giúp xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội. Vậy điều kiện, trách nhiệm đối với người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người khuyết tật, người già là gì? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Căn cứ tại Điểm c, Khoản 1, Điều 18, Nghị định 20/2021/NĐ-CP, người khuyết tật đặc biệt năng là một trong các đối tượng thuộc diện được hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng hàng tháng. Khoản 1, Điều 2, Luật người khuyết tật năm 2010 quy định người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Trong đó, người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày.
Bên cạnh đó, căn cứ tại Điểm b, Khoản 1, Điều 18, Nghị định 20/2021/NĐ-CP, người cao tuổi thuộc diện được hộ gia đình, cá nhân nhận chăm sóc nuôi dưỡng hàng tháng đó là người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.
Khoản 1, Điều 23, Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về điều kiện, trách nhiệm đối với người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng và người cao tuổi đủ điều kiện sống tại cơ sở trợ giúp xã hội như sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
Điều 19, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
- Có sức khoẻ, kinh nghiệm và kỹ năng chăm sóc người khuyết tật, người cao tuổi;
Người khuyết tật, người cao tuổi là những đối tượng đặc biệt với những quy trình chăm sóc cần phải cẩn thận, kỹ lưỡng và đúng kỹ thuật. Do vậy, việc chăm sóc người khuyết tật, người cao tuổi đòi hỏi người nhận chăm sóc phải có sức khoẻ, kinh nghiệm và kỹ năng chăm sóc.
- Có nơi ở ổn định và nơi ở cho người khuyết tật, người cao tuổi;
- Có điều kiện kinh tế;
- Đang sống cùng chồng hoặc vợ thì chồng hoặc vợ phải bảo đảm điều kiện có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có sức khoẻ, kinh nghiệm và kỹ năng chăm sóc người khuyết tật, người cao tuổi;
Căn cứ tại Khoản 2, Điều 23 Nghị định 20/2021/NĐ-CP, người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng không được tiếp tục nhận chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi, người khuyết tật khi có các hành vi sau:
- Có hành vi đối xử tệ bạc đối với người cao tuổi, người khuyết tật;
Các hành vi đối xử tệ bạc như đánh đập, mắng nhiếc, chửi rửa, nhục mạ, bỏ đói…
- Lợi dụng việc nhận việc chăm sóc, nuôi dưỡng để trục lợi;
Các hành vi lợi dụng việc nhận chăm sóc, nuôi dưỡng để trục lợi có thể hiểu là việc người nhận chăm sóc, nuôi dưỡng lợi dụng người cao tuổi, người khuyết tật để kiếm tiền.
Ví dụ như bắt người cao tuổi đi bán hàng rong trên dọc đường, lợi dụng các khiếm khuyết về thể chất để bắt người khuyết tậ đi ăn xin
- Có tình trạng kinh tế hoặc lý do khác dẫn đến không còn bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi, người khuyết tật;
- Vi phạm nghiêm trọng quyền của người được nhận chăm sóc, nuôi dưỡng.
Ví dụ: Một trong các quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 tại Khoản 1, Điều 14 như sau:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh