2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Quyền tác giả là một bộ phận của quyền sở hữu trí tuệ bởi vậy mà quyền tác giả cũng có những đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ như: đối tượng của quyền tác giả là hoạt động sáng tạo trí tuệ; quyền tác giả giới hạn không gian, thời gian, nội dung bảo hộ…. Vậy câu hỏi đặt ra là quyền tác giả có bảo hộ nội dung tác phẩm hay không? Hãy cùng Luật Hoàng Anh tìm hiểu qua bài viết sau.
Thuật ngữ quyền tác giả trong tiếp anh sử dụng từ “copyright” (có nghĩa là quyền sao chép); tiếng Pháp là “droit d’auteur” (có nghĩa là quyền tác giả) và tiếng Đức là “Urheberrecht” (có nghĩa là bản quyền). Sở dĩ có cách sử dụng thuật ngữ khác nhau như vậy vì trên thế giới hiện nay tồn tại những cách thức tiếp cận khác nhau đối với khái niệm quyền tác giả cũng như chủ thể được bảo hộ quyền tác giả. Tùy thuộc vào cách tiếp cận. pháp luật về quyền tác giả của các quốc gia trên thế giới theo hai hộ thống: Châu Âu lục địa )Droit Auteur - System) và hệ thống Anh - Mỹ (Copyright - System). Tuy nhiên dù theo cách tiếp cận nào thì các quốc gia trên thế giới đều thống nhất ở điểm chung quyền tác giả là phạm vi các quyền (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản) của chủ thể (bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả) đối với tác phẩm của họ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Tìm hiểu thêm : Dịch vụ tư vấn về quyền sở hữu công nghiệp
Ở Việt Nam, tại Khoản 2 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ năm 2009) quy định về khái niệm quyền tác giả như sau: "Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu."
Theo đó có thể hiểu quyền tác giả bao gồm những quyền cụ thể mà pháp luật trao cho tác giả hay chủ sở hữu của một tác phẩm về việc đặt tên tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Sao chép, điều chỉnh hay truyền tải, phổ biến tác phẩm đến với công chúng bằng và việc cho phép người khác tham gia vào quá trình khai thác tác phẩm.
Thứ nhất, đối tượng của quyền tác giả là sản phẩm của hoạt động sáng tạo tinh thần. Lĩnh vực sáng tạo của quyền tác giả chủ yếu thiên về văn hóa, nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu tinh thần và nâng cao hiểu biết về các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học. Hơn nữa, tác phẩm-đối tượng của quyền tác giả phản ánh tư tưởng, tình cảm, phong cách, nhân sinh quan của người sáng tác, do nó thường chứa đựng nội dung tinh thần nhất định.
Thứ hai, quyền tác giả được tự động xác lập. Theo đó, quyền tác giả phát sinh một cách mặc nhiên, không phụ thuộc vào bất kỳ thể thức, thủ tục nào. Khi một tác phẩm đã được định hình dưới hình thức nhất định mà người khác có thể nhận biết thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đương nhiên sẽ có các quyền tác giả đối với tác phẩm đó và các quyền này được pháp luật ghi nhận, bảo hộ mà không cần phải thông qua việc đăng ký quyền tác giả. Cần phải lưu ý là việc bảo hộ sẽ không được đặt ra khi tác phẩm mới chỉ nằm trong ý tưởng của nhà sáng tạo.
Thứ ba, quyền tác giả chỉ bảo hộ về hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ ý tưởng sáng tạo.
Điều 18 Luật sở hữu trí tuệ 2005 quy định: “Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.”
Cụ thể, căn cứ theo quy định tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ 2022 thì quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây:
- Đặt tên cho tác phẩm.
Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;
- Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
- Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Căn cứ theo quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ 2022 2022 thì quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
- Làm tác phẩm phái sinh;
- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
- Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối;
- Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;
- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ, trong đó quyền tác giả được quy định như sau: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.”
Theo đó, có thể khẳng định rằng quyền tác giả không bảo hộ nội dung của tác phẩm.
Một trong những đặc điểm của quyền tác giả đã được trình bày đó là quyền tác giả chỉ bảo hộ về hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ nội dung tác phẩm. Bởi các tác phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học chỉ có ý nghĩa khi công chúng có thể tiếp cận được nó, nên quyền tác giả chỉ được pháp luật bảo hộ khi tác phẩm được thể hiện thông qua hình thức nhất định để có thể nhận biết, xác định được tác phẩm. Hoạt động sáng tạo cần đến các nguồn chất liệu như; các ý tưởng, thông tin… Nguồn chất liệu này trong đó có các ý tưởng, chủ đề có thể coi là kho tài sản chung của xã hội và mọi người đều có thể khai thác tự do, vì vậy nó không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả. Từ nguồn chất liệu chung đó, tác giả sử dụng các công cụ như ngôn ngữ, âm thanh, hình ảnh, màu sắc… bổ sung thêm những chất liệu của riêng mình như tư tưởng, tình cảm để tạo nên tác phẩm. Do đó, ý tưởng, chủ để sáng tác có thể trùng nhau nhưng hình thức thể hiện tác phẩm của mỗi tác giả thì không thể hoàn toàn giống nhau vì quá trình sáng tạo tùy thuộc vào việc tác giả sử dụng chất liệu, công cụ như thế nào. Vì vậy, pháp luật chi bảo hộ quyền tác giả đối với hình thức thể hiện mà hoàn toàn không bảo hộ chủ đề, nội dung trong tác phẩm. Dịch vụ tư vấn đăng ký sáng chế tại luật Hoàng Anh.
Tuy nhiên, đối với các ý tưởng liên quan đến các giải pháp kỹ thuật, chủ thể sáng tạo có thể được bảo hộ độc quyền khi thể hiện giải pháp kỹ thuật đó dưới dạng bản mô tả sáng chế hay kiểu dáng công nghiệp và nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Cơ chế bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trao cho chủ sở hữu độc quyền khai thác ý tưởng sáng tạo kỹ thuật, khác với cơ chế bảo hộ quyền tác giả chỉ trao cho tác giả các quyền nhân thân, tài sản liên quan tới việc sử dụng hình thức của tác phẩm.
Ví dụ: giải pháp kỹ thuật được bảo hộ quyền tác giả khi được thể hiện dưới dạng bảo báo cáo khoa học và tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được hưởng quyền liên quan đến việc sử dụng hình thức thể hiện của bản báo cáo khoa học mà không bảo hộ ý tưởng của giải pháp khoa học đó.
Quyền tác giả được xác lập tự động, không phụ thuộc vào bất kỳ thể thức, thủ tục nào. Cụ thể hơn đó là khi một tác phẩm đã được định hình dưới hình thức nhất định để người khác có thể nhận biết được thì tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đương nhiên sẽ có các quyền tác giả đối với tác phẩm đó và các quyền này được pháp luật ghi nhận, bảo hộ mà không cần phải thông qua việc đăng ký quyền tác giả.
Lưu ý rằng, mặc dù pháp luật quyền tác giả có quy định về việc đăng ký quyền tác giả nhưng việc đăng ký không phải là căn cứ để xác lập quyền tác giả mà chỉ là một thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi nhận các thông tin về tác giả, tác phẩm, chủ sở hữu quyền tác giả theo yêu cầu của chủ thể quyền tác giả. Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chỉ có giá trị chứng cứ khi cần chứng minh quyền tác giả. Điều này hoàn toàn khác với “văn bằng bảo hộ” đối tượng SHCN có giá trị ghi nhận phạm vi, thời hạn bảo hộ quyền SHCN. Pháp luật quyền tác giả trên thế giới đều quy định về việc bảo hộ tự động đối với quyền tác giả nhưng việc bảo hộ chỉ phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm đã được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định mà người khác có thể nhận biết và tiếp cận được tác phẩm. Việc bảo hộ không được đặt ra khi tác phẩm mới chỉ năm trong ý tưởng của nhà sáng tạo.
Khoản 1 Điều 41 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 12 Điều 1 của Luật sở hữu trí tuệ 2022 như sau:
“ Điều 41. Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền
1. Tổ chức, cá nhân được chuyển giao một, một số hoặc toàn bộ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản 1 Điều 20 của Luật này theo thỏa thuận trong hợp đồng là chủ sở hữu quyền tác giả.”
Ngoài ra, khoản 2 Điều 47 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 13 Điều 1 Luật sở hữu trí tuệ 2022 cũng quy định:
“ Tác giả không được chuyển quyền sử dụng quyền nhân thân quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 19 của Luật này. Người biểu diễn không được chuyển quyền sử dụng quyền nhân thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này”
Như vậy, có thể khẳng định, Luật sở hữu trí tuệ cũ tác giả chỉ được chuyển giao một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và một quyền nhân thân duy nhất là quyền công bố tác phẩm thì Luật sửa đổi, bổ sung 2022 cho phép tác giả chuyển giao thêm một quyền nhân thân nữa. Theo đó, tác giả được quyền chuyển giao hai quyền nhân thân là quyền công bố tác phẩm và quyền đặt tên cho tác phẩm. Từ đó, chủ sở hữu được chuyển giao quyền hoàn toàn có thể đặt tên hoặc thay đổi tên và điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của tác giả.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh