2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết sang cho người đang còn sống. Thông qua việc lập di chúc người lập di chúc được thực hiện quyền của mình theo quy định pháp luật. Vậy quyền của người lập di chúc là gì? Bài viết này sẽ làm rõ vấn đề theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.
Người lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi, được tự mình xác lập di chúc trong đó chỉ định một hoặc nhiều người trong chúc và cho họ hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình. Quyền của người lập di chúc là những việc họ được thực hiện khi xác lập di chúc, nó thể hiện trong nội dung của di chúc. Theo đó, người lập di chúc có các quyền theo quy định tại Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
Lập di chúc chính là một hình thức định đoạt tài sản của chủ sở hữu, di chúc khác với các hình thức định đoạt tài sản khác ở chỗ nó chỉ có hiệu lực khi người có di sản chết. Tuy nhiên điều đó không làm ảnh hưởng đến quyền định đoạt tài sản của các chủ thể, người lập di chúc có quyền để lại tài sản cho bất kì chủ thể nào. Người nhận di sản không nhất thiết phải là người có cùng huyết thống, mà có thể là bất kì cá nhân nào thậm chí có thể là Nhà nước, các tổ chức khác. Quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc còn thể hiện ở chỗ họ có quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Điều đó được hiểu là việc người lập di chúc không cho người thừa kế được hưởng di sản thừa kế mà người đó đáng được hưởng, mà không nhất thiết phải có lý do, người bị truất quyền thừa kế có thể là một hay nhiều người tùy thuộc vào ý chí của người để lại dia sản.
Phân định tài sản trong di chúc diễn ra khi có cùng lúc nhiều người thừa kế. Người lập di chúc có thể chia phần tài sản của mình cho những người thừa kế không nhất thiết phải bằng nhau, có thể có người được hưởng di sản nhiều hơn những người còn lại. Nếu trong di chúc chỉ chỉ định những người thừa kế mà không phân định di sản cho từng người, thì di sẩn sẽ được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc.
Di sản được chia làm nhiều phần, một phần trong số đó được dùng vào việc thờ cúng, di tặng theo ý nguyền của người lập di chúc. Thờ cúng là một nếp sống văn hóa lâu đời của nhân dân ta thể hiện lòng tôn kính với người đã chết, vì vậy Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các truyền thống tốt đẹp đó, cho phép cá nhân dùng một phần tài sản của mình vào việc thờ cúng, phần di sản thờ cúng không được tính vào di sản thừa kế. Di tặng là việc để lại di sản tặng cho một chủ thể nào đó đang sống làm kỉ niệm. Người hưởng tài sản di tặng có quyền sở hữu đối với phần di sản được hưởng mà không phải thực hiện nghĩa vụ ài sản của người chết để lại.
Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế cho những người thừa kế theo pháp luật mà có thể để lại hoặc không để lại di sản cho người đó. Trong trường hợp không để lại di sản, thì người thừa có thể từ chối việc thực hiện nghĩa vụ được giao. Trường hợp có để lại di sản, lúc này người thừa kế tối thiểu phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được hưởng hoặc có thể thực hiện nghĩa vụ vượt quá phần di sẩn được hưởng. Ví dụ: Ông A có vợ là bà B và con trai là anh C, khi ông A chết để lại toàn bộ tài sản cho anh C kèm với điều kiện anh C phải chăm sóc, phụng dưỡng bà B cho đến khi bà B chết.
Việc chỉ định người giữ di chúc, quản lý di sản, phân chia di sản phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của người lập di chúc, nhưng việc có thực hiện hay không lại phụ thuộc vào chủ thể được chỉ định. Vì đây không phải là nghĩa vụ pháp lý mang tính bắt buộc mà là biểu hiện tinh thần tự nguyện, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Người lập di chúc có thể chỉ định một hoặc nhiều người thực hiện công việc trên, tùy thuộc vào ý chí và niềm tin của họ.
Trên đây là những quy định của pháp luật về quyền của người lập di chúc.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh