2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Người quản lý di sản là người có quyền quản lý, phân chi di sản của chết để lại. Họ thực hiện viêc quản lý thông qua quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý di sản. Vậy nghĩa vụ của người quản lý di sản là gì? Bài viết này sẽ làm rõ vấn đề theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015.
Nghĩa vụ quản lý di sản là những việc mà người có quyền phải thực hiện để bảo vệ, giữ gìn tài sản của người đã chết. Người quản lý di sản có thể là người được người đã chết hoặc những người thừa kế của người đã chết chỉ định; họ cũng có thể là người đang chiếm giữ, quản lý tài sản hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Điều 617 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ của các chủ thể quản lý di sản như sau:
Trường hợp này chủ thể quản lý chỉ phát sinh khi người để lại di sản đã chết. Nghĩa vụ của họ phát sinh kể từ khi người để lại di sản qua đời. Theo đó, các chủ thể có nghĩa vụ:
Một là, lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người quản lý di sản trước thời điểm mở thừa kế có nghĩa vụ kiểm kê các di sản của người chết, để phục vụ cho việc chia tài sản cho những người thừa kế. Di sản của người chết mà người khác đang chiếm giữ là tài sản mà lúc còn sống người để lại di sản đã thực hiện chuyển giao tài sản cho người đó, thông qua việc thực hiện các hành vi như: cho vay, cho thuê, cho mượn,…những tài sản phải đảm bảo là tài sản thuộc sở hữu của người đã chết. Tài sản sau khi thu hồi được liệt kê vào danh sách di sản để tiến hành chia di sản.
Hai là, bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản. Người quản lý di sản không phải chủ sở hữu di sản đó, nên không có quyền định đoạt di sản, vì vậy việc thực hiện các hành vi liên quan đến định đoạt, sử dụng tài sản phải được sự đồng ý của người thừa kế. Hình thức chấp thuận việc định đoạt tài sản của người quản lý phải được lập thành văn bản, vì văn bản mang tính chất pháp lý cao, gắn với trách nhiệm của người thừa kế nếu xảy ra rủi ro hoặc tranh chấp.
Ba là, thông báo về tình trạng di sản cho những người thừa kế. Người thừa kế có quyền được biết về di sản thừa kế để biết được quyền, nghĩa vụ của họ liên quan đến di sản mà họ sẽ thừa kế.
Bốn là, bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại. Nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc các chủ thể phải thực hiện đúng. Nghĩa vụ của người quản lý di sản là bảo vệ, giữ gìn di sản,…Trong trường hợp người quản lý di sản có lỗi để cho tài sản bị hư hỏng, mất mát,...Thì phải bồi thưởng thiệt hại cho người thừa kế.
Năm là, giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế. Trên thực tế việc chia di sẩn thường được tiến hành sâu một quãng thời gian người để lại di sản chết, vì vậy mục đích pháp luật quy định có người quản lý di sản là để bảo vệ di sản từ khi người để lại di sản chết đến khi tiến hành chia thừa kế. Như vậy người quản lý chỉ thực hiện bảo vệ di sản trong một quãng thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn đó di sẩn sẽ được giao lại cho người thừa kế.
Người quản lý di sản là người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản là người được được người để lại di sản chuyển giao các quyền chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản trước khi chết. Người quản lý trong trường hợp này phát sinh quyền, nghĩa vụ với di sản từ trước khi người để lại di sản chết. Người chiếm hữu, sử dụng, quản lý tài sản có các nghĩa vụ về quản lý di sản gần giống với người quản lý di sản được chỉ định hoặc cơ quan có thẩm quyền như: Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác; Thông báo về di sản cho những người thừa kế; Bồi thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại; Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế. Người quản lý di sản trong trường hợp này chỉ nhằm mục đích tiếp tục giữ gìn phần tài sản như thỏa thuận với người để lại di sản trước khi chết, việc quản lý tài san trong trường hợp này phát sinh từ một quan hệ dân sự khác, vì vậy mà họ không có nghãi vụ phải lập danh sách tài sản và thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang nắm giữ.
Nghĩa vụ của người quản lý di sản gắn với quyền lợi của những người thừa kế đối với phần di sản của người chết để lại. Trên đây là quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý di sản.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh