Người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc là ai?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:41:55 (GMT+7)

Tuy nhiên họ vẫn được hưởng di sản mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vậy những người thừa kế đó là ai?

Khi lập di chúc, người để lại di sản có thể vì lý do nào đó, mà không để lại di sản cho một số người thân thiết, gần gũi. Tuy nhiên họ vẫn được hưởng di sản mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Vậy những người thừa kế đó là ai? Pháp luật quy định như thế nào về người thừa kế được hưởng di sản mà không phụ thuộc vào di chúc? Bài viết này sẽ làm rõ vấn đề trên theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.
Phần di sản giành cho cho người thừa kế không có tên trong di chúc lần đầu tiên được ghi nhận tại Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/07/1981 của Tòa án nhân dân tối cao. Kế thừa thông tư 81 cùng với sự phát triển của pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự mới nhất năm 2015 tiếp tục quy định cụ thể về vấn đề này:

"Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này"

1. Chủ thể

Chủ thể được hưởng di sản không phụ thuộc vào di chúc là những người có quan hệ thân thiết, gần gũi với với người đã chết bao gồm: con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà mất khả năng lao động, cha, me, vợ, chồng. Mục đích của quy định này là nhằm bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ, vợ, chồng, con cái tránh khỏi những quyết định bất lợi cho họ của người để lại di sản. Những người này dù xét về mặt pháp lý hay đạo đức thì cũng là những người mà người để lại di sản có bổn phận phải chăm sóc, nuôi dưỡng. Nghĩa vụ này không chỉ phải thực hiện khi còn sống, mà ngay cả khi chết đi người để lại di sản vẫn phải tiếp tục thực hiện bằng việc để lại một phần di sản của mình cho những người đó. Nếu người lập di chúc vì một lý do nào đó mà không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình, thì pháp luật bằng biện pháp cưỡng chế sẽ quy định những người thân thích đó sẽ đương nhiên được hưởng di sản của người đã chết. Đối với con cái có khả năng lao động và từ đủ 18 (gọi chung là người thành niên) được pháp luật trao cho năng lực hành vi đẩy đủ, họ có thể tự mình tham gia các quan hệ dân sự mà không cần người đại diện hay người giám  hộ nữa, vì vậy người để lại di sản cũng không còn bổn phận phải chăm sóc, nuôi dưỡng họ, nên họ không phải người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.

2. Phần di sản mà người thừa kế đương nhiên được hưởng

Những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hưởng tối thiểu 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật, nếu người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc có cho nhưng phần di sản ít hơn 2/3 suất thừa kế đó. 2/3 một suất thừa kế đó nằm trong khối di sản mà người chết để lại sau khi đã trừ đi các nghĩa vụ tài chính, các khoản chi phí phát sinh của người lập di chúc như: nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ trả nợ, chi phí cho việc bảo quản di sản,…Phần di sản của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc sẽ được trích ra từ phần thừa kế của những người thừa kế còn lại. 
Ví dụ: Ông A và bà B là vợ chồng có hai người con là C và D, tài sản chung của hai vợ chồng là 1,2 tỷ đồng. Sau khi bà B chết đi, do có mâu thuẫn với ông A nên lập di chúc để lại di sản cho hai con là C và D phần di sản bằng nhau, khi đó:
- Người thừa kế không theo di chúc của bà B là ông A, vậy ông A sẽ được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật.
- Tài sản riêng của bà B trong khối tài sản chung của vợ chồng là: 1,2 tỷ : 2 = 600 triệu
- Phần di sản của anh C và anh D được hưởng theo di chúc là: 600 triệu : 2 = 300 triệu/người
- Nếu chia theo pháp luật thì ông A, anh C và anh D đều được hưởng di sản như nhau, do đó một suất thừa kế là: 600 triệu : 3 = 200 triệu/người
- Khi đó 2/3 suất thừa kế ông A được hưởng là 2/3 x 200 triệu = 133,3 triệu, số tiền này sẽ được trích đều trong phần di sản của anh C và D.
Pháp luật quy định con số 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật vừa bảo vệ quyền cho người thừa kế không theo di chúc, vừa không làm triệt tiêu quyền của những người thừa kế còn lại.

3. Loại trừ người thừa kế không theo di chúc

Quy định về chia di sản cho người thừa kế không theo di chúc không áp dụng với người từ chối nhận di sản và người không có quyền hưởng di sản. Đối với người từ chối nhận di sản, họ có thể là người từ chối nhận di sản theo di chúc cũng có thể là người từ chối nhận di sản theo pháp luật. Nhưng dù ở trường hợp nào họ cũng được pháp luật tôn trọng ý chí độc lập của mình. Pháp luật về chia di sản cho người thừa kế không theo di chúc nhằm bảo vệ quyền lợi cho những người không được hưởng di sản, tuy nhiên nếu họ từ chối quyền lợi đó, từ chối được bảo hộ thì không ai có quyền ép buộc kể cả pháp luật. Đối với những người không có quyền hưởng di sản là những người vi phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, pháp luật đối với người để lại di sản, họ thực hiện các hành vi gây bất lợi, khó khăn cho người để lại di sản. Pháp luật đã tước quyền hưởng di sản của họ dù họ có tên trong di chúc hay không, do đó họ đương nhiên càng không có quyền thừa kế khi người để lại di sản không cho họ hưởng di sản. 

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư