Những trường hợp nào không xử phạt vi phạm hành chính?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:03 (GMT+7)

Điều 11, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 05 trường hợp khi vi phạm không bị xử phạt hành chính

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội. Mặc dù, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thấp hơn tội phạm quy định trong Bộ Luật hình sự nhưng vi phạm hành chính vẫn gây thiệt hại hoặc đe dọa lớn đến lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu không được ngăn chạy, xử lý kịp thời.

Tuy nhiên, có những hành vi khi vi phạm thì lại không cần áp dụng chế tài đã quy định. Điều 11, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định 05 trường hợp ngoại lệ.

Không xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp sau đây:

1. Thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong tình thế cấp thiết.

Theo khoản 1, Điều 171, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.

Trong tình thế cấp thiết, có 03 vấn đề cần chú ý, đó là:

1.1 Hình thức của thiệt hại gây ra trong tình thế cấp thiết

- Thiệt hại đến tính mạng con người: Cần phải được chú ý đặc biệt vì tính mạng là tài sản quý giá nhất của con người. Về nguyên tắc, không thể hy sinh tính mạng của con người để bảo vệ tính mạng của người khác để bảo vệ tính mạng của bản thân mình. Điều này không phù hợp với quy định của tình thế cấp bách là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn. Nó không phù hợp với đạo đức xã hội cũng như các quy chuẩn khác được Nhà nước đặt ra.

- Thiệt hại đến sức khỏe con người

- Thiệt hại đến tài sản

- Thiệt hại đến quyền tự do cơ bản của công dân

Với hai thiệt hại này là những thiệt hại dễ hình dung và đã được chứng minh trên thực tế. Loại thiệt hại sau cùng ở đây là những hạn chế đối với các quyền tự do cơ bản của công dân. Ta có thể thấy trường hợp này trong các gia đình chăm sóc người thân thích là người bệnh tâm thần. Ở đây, vì lợi ích của chính người đó mà những người khác phải hạn chế quyền tự do của họ bằng các hình thức khác nhau như nhốt, giữ trong nhà, theo dõi, giám sát chặt chẽ khi ra ngoài được

1.2 Hình thức của mục đích hành động trong tình thế cấp thiết

Dấu hiệu cơ bản của mặt chủ quan của người gây thiệt hại trong tình thế cấp bách là phải có mục đích bảo vệ lợi ích Nhà nước, của tập thể, lới ích chính đáng của mình, hoặc của người khác trước nguy cơ bị đe dọa thiệt hại.

Nếu thiếu dấu hiệu về mục đích này thì sự gây thiệt hại sẽ không còn nằm trong phạm vi của tình thế cấp thiết nữa mà chuyển sang tội phạm trong pháp luật Hình sự.  Mục đích hành động trong tình thế cấp thiết có các hình thức sau:

- Bảo vệ lợi ích của Nhà nước

- Bảo vệ lợi ích của tập thể

- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mình

- Bảo vệ lợi ích chính đáng của người khác

Khi hoạt động, người gây thiệt hại trong tình thế cấp thể phải có ít nhất một trong các mục đích kể trên. Trên cơ sở lý luận về việc hình thành hành động của con người, chúng ta biết rằng mỗi hành động của con người không chỉ nhằm một mục đích mà có thể còn nhằm nhiều mục đích khác nhau.

Nếu người hành động trong tình thế cấp thiết có nhiều mục đích và là những mục đích ể trên thì đương nhiên là tình thế cấp thiết. Ví dụ, muốn tránh nguy cơ hỏa hoạn, người gây thiệt hại vừa có mục đích bảo vệ tài sản của Nhà nước vừa có mục đích bảo vệ tài sản của công dân.

Vấn đề được đặt ra là người gây thiệt hại có nhiều mục đích, trong đó có một trong những mục đích kể trên thì có được coi là tình thế cấp thiết không.

1.3 Nguyên tắc trong tình thế cấp thiết là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn hơn. 

Nếu ngược lại, thì quy định của tình thế cấp thiết với tính chất là hướng dẫn cách xử sự của con người là vô nghĩa. Không phải mọi trường hợp, lợi ích cá nhân đều được đánh giá thấp hơn lợi ích của Nhà nước và của tập thể. Và cũng không phải mọi trường hợp gây thiệt hại nhỏ hơn để bảo vệ lợi ích nhỏ hơn đều là tình thế cấp thiết mà nó còn phải phù hợp với đạo đức xã hội. 

Bên cạnh đó, nguồn nguy hiểm trong tình thế cấp thiết rất đa dạng, có thể do con người, súc vật, sức mạnh thiên nhiên,… gây ra. Bên cạnh yếu tố khác, vấn đề từ con người gây ra có thể nhìn đến việc do con người vô ý gây ra hoặc do con người cố ý gây ra. Như vậy, khi nhìn nhận tình thế cấp thiết trong vi phạm hành chính, cần chú ý các yếu tố sau:

- Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là việc làm không trái pháp luật, không có lỗi

- Thiệt hại trong tình thế cấp thiết là thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản và trong trường hợp đặc biệt là quyền tự do của công dân.

- Mục đích bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân là dấu hiệu bắt buộc trong tình thế cấp thiết. Nó có thể kết hợp được với các mục đích khác

- Lợi ích cần hy sinh trong tình thế cấp thiết không những phải nhỏ hơn lợi ích được bảo vệ mà con phải phù hợp với đạo đức xã hội

- Một số người cố ý tạo nên nguy cơ rồi từ đó gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của công dân thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết

2. Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do phòng vệ chính đáng.

Phòng vệ chính đáng là hành vi của cá nhân vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích nói trên.

Về phòng vệ chính đáng trong hành chính, 03 vấn đề cần chú ý gồm:

2.1 Cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là hành vi của cá nhân vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích nói trên.

Như vậy, quyền phòng vệ chính đáng của con người được phát sinh khi có hành vi có người khác tấn công, xâm phạm các lợi ích được pháp luật bảo vệ.

Hành vi xâm phạm quyền, lợi ích nói trên được hiểu là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa thực tế, gây thiệt hại cho xã hội, cho người khác, cho Nhà nước, cho cơ quan, tổ chức. Sự xâm phạm thường được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể bằng hành động hoặc không bằng hành động.

Hành vi xâm phạm là cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng trước hết là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi được pháp luật cho phép thì người xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ. Hành vi trái pháp luật là hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp luật, không làm việc pháp luật yêu cầu, làm những việc pháp luật cấm hoặc vượt quá giới hạn mà Luật Hành chính quy định.

2.2 Nội dung của quyền phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là hành vi của cá nhân vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích nói trên.

Như vậy, nội dung của quyền phòng vệ chính đáng phải là hành vi chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích nói trên. Bởi vì chỉ có như vậy, hành vi của người phòng vệ mới giúp đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng đó là ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ sự tấn công gây thiệt hại cho xã hội. Hành vi chống trả này phải nhằm, vào chính người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp. Thiệt hại mà người phòng vệ chính đáng gây ra cho người tấn công có thể nhắc tới như tính mạng, sức khỏe, tự do của người tấn công hoặc thiệt hại về tài sản mà người có hành vi tấn công để thực hiện vi phạm hành chính.

2.3 Phạm vi của phòng vệ chính đáng

Phạm vi của phòng vệ chính đáng là việc đề cập đến giới hạn, mức độ của hành vi phòng vệ. Phạm vi đó nhằm xác định được ranh giới hành vi nào là phòng vệ chính đáng và hành vi nào không phải là hành vi phòng vệ chính đáng. Phạm vi ở đây phải là chống trả “một cách cần thiết”.

Việc “Cần thiết” ở đây phải là chống trả của người phòng vệ trong hoàn cảnh cụ thể, phải là biện pháp cần thiết đủ để ngăn chặn đẩy lùi hoặc loại bỏ hành vi tấn công. Hành vi chống trả của người phòng vệ phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công mà không có sự chênh lệch quá đang giữa hành vi tấn công và hành vi phòng vệ.

Điều này không có nghĩa là thiệt hại mà người phòng vệ gây ra cho người có hành vi tấn công phải nhỏ hơn hay ngang bằng thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra. Hành vi chống trả cần thiết có nghĩa là biện pháp chống trả mà người phòng vệ sử dụng trong hoàn cảnh cụ thể đủ để có thể ngăn chặn hoặc đẩy lùi, loại bỏ hành vi xâm phạm.

3. Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất ngờ

Khoản 13, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:

“Sự kiện bất ngờ là sự kiện mà cá nhân, tổ chức không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi nguy hại cho xã hội do mình gây ra.”

Về cơ bản, sự kiện bất ngờ có những đặc điểm sau đây:

3.1 Sự kiện bất ngờ là sự kiện mà cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm

Trong xử lý vi phạm hành chính, việc vi phạm hành chính là căn cứ để xác định được có ra quyết định xử phạt hành vi đó không và căn cứ để xem xét có xâm phạm quan hệ hành chính mà pháp luật bảo vệ. Khoản 1, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.”

Với khái niệm sự kiện bất ngờ, “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội” thì họ đã phải thực hiện hành vi trước. Tuy nhiên việc thực hiện hành vi trong điều kiện này chưa hẳn phải chịu quyết định xử phạt bởi phải căn cứ vào 02 yếu tố còn lại.

3.2 Sự kiện bất ngờ là sự kiện không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi nguy hại cho xã hội do mình gây ra 

Trong sự kiện bất ngờ, cần phải lưu ý rằng đây là hành vi gây hậu quả nguy hại chứ không phải là hành vi nguy hiểm như trong mặt khách quan của cấu thành vi phạm. Chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả thiệt hại của hành vi của mình hoặc tuy có nghĩa vụ phải thấy trước nhưng không có điều kiện để thấy trước hậu quả đó. Như vậy, trong trường hợp sự kiện bất ngờ, việc chủ thể không thấy trước hậu quả thiệt hại mà hành vi của mình đã gây ra là do khách quan, việc nhấn mạnh ở đây là hậu quả xảy ra là gì chứ không phải hành vi thực hiện ra sao.

Đồng thời, người thực hiện hành vi thực tế không mong muốn hậu quả của hành vi đó sẽ xảy ra. Họ không nhận thức rằng khi thực hiện hành vi thì sẽ có hậu quả, hay là không thấy được hậu quả và họ cũng không có nghĩa vụ phải biết điều đó. Nếu họ có nghĩa vụ phải biết điều đó và có điều kiện để biết điều đó thì họ có thể bị truy cứu vì lỗi vô ý do cẩu thả đối với một tội phạm nào đó tương ứng.

Ngoài ra, họ không thấy trước hậu quả của mình gây ra tức là vì sự kiện xảy ra quá bất ngờ, nếu họ thấy trước hậu quả của mình gây ra mà vẫn thực hiện thì sẽ là hành vi vi phạm hành chính bởi có lỗi vô ý do cẩu thả. 

3.3 Sự kiện bất ngờ là sự kiện không phải chịu trách nhiệm hành chính khi vi phạm

Bởi vì đây là một sự kiện khách quan, và tất cả các yếu tố trên đều xác định rằng, họ không có lỗi trong việc thực hiện hành vi của mình. Do vậy, trường hợp này, họ không phải chịu xử lý vi phạm hành chính như quy định.

4. Thực hiện hành vi vi phạm hành chính do sự kiện bất khả kháng

Khoản 14, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

Một sự kiện sẽ được coi là bất khả kháng nếu: 

4.1 Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan 

Khách quan có thể hiểu là chỉ tất cả những gì tồn tại không phụ thuộc vào một chủ thể xác định, hợp thành một hiện thực; thường xuyên tác động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương hướng. Nói đến khách quan là nói đến những gì tồn tại độc lập, bên ngoài, không phụ thuộc vào chủ thể hoạt động.

BLDS 2015 không quy định tiêu chí để xác định một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan. Tuy nhiên, có thể hiểu, một sự kiện xảy ra một cách khách quan khi sự kiện đó xảy ra không theo ý chí của các bên. Hay nói cách khác, sự kiện đó không do các bên tạo ra hoặc phát sinh do lỗi chủ quan của các bên.

4.2 Sự kiện bất khả kháng là sự kiện không thể lường trước được

Tương tự việc xác định một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan, BLDS 2015 không quy định tiêu chí để xác định một sự kiện được xem là xảy ra không thể lường trước được và Luật xử lý vi phạm hành chính cũng không quy định cụ thể. Diễn giải một cách đơn giản, một sự kiện là xảy ra không thể lường trước được khi sự kiện đó xảy ra nằm ngoài dự đoán của các bên. Được xảy ra một cách bất ngờ mà trước đó, chưa ai nhắc hay nói đến.

4.3 Sự kiện bất khả kháng là sự kiện không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép

Bên cạnh các điều kiện yêu cầu sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện xảy ra khách quan và không thể lường trước được, đồng thời, BLDS 2015 cũng như Luật xử lý vi phạm hành chính quy định sự kiện bất khả kháng phải là sự kiện không thể khắc phục được mặc dù bên có nghĩa vụ đã nỗ lực áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép để khắc phục tác động của sự kiện đến tình huống. 

5. Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính không có năng lực trách nhiệm hành chính; người thực hiện hành vi vi phạm hành chính chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 của Luật này.

5.1 Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính không có năng lực trách nhiệm hành chính

Khoản 15, Điều 2, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:

Người không có năng lực trách nhiệm hành chính là người thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng của cá nhân hay tổ chức gánh chịu hậu quả bất lợi, biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định ở chế tài quy phạm pháp luật. Đối với cá nhân, năng lực trách nhiệm pháp lý được pháp luật nhà nước ta quy định như sau: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính; người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý, phải chịu trách nhiệm hành chính do cố ý thực hiện vi phạm hành chính.

Như vậy, người không có năng lực trách nhiệm hành chính thì không phải gánh chịu hậu quả, biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định ở chế tài quy phạm pháp luật hành chính. Bởi họ thiếu một trong các yếu tố bắt buộc cấu thành hành vi vi phạm hành chính.

5.2 Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính

Điểm a khoản 1 Điều 5 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.”

Như vậy, người chưa đủ tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính là người chưa đủ 14 tuổi bởi từ 14 tuổi trở lên đã phải chịu các chế tài hành chính.

Cần lưu ý rằng, xử phạt hành chính khác với áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính. Bởi nếu xử phạt thì người chưa đủ 14 tuổi không cần chịu chế tài song:

Khoản 1 Điều 90 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn như sau: “Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự”

Như vậy người chưa đủ 14 tuổi trong trường hợp thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa thì những chủ thể đó sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính là chịu giáo dục, quản lý tại nơi cư trú. Thời hạn áp dụng biện pháp này được quy định tại khoản 2 điều 89 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp giáo dục tại xã, phường thị trấn là từ 03 tháng đến 06 tháng.

Ngoài ra, về chủ thể từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi khi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự thì các chủ thể này sẽ phải chịu biện pháp xử lý đưa vào trường giáo dưỡng. Thời hạn áp dụng biện pháp này được quy định tại Khỏan 3 Điều 91 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ 06 tháng đến 12 tháng.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết về pháp luật xử lý vi phạm hành chính

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư