2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, là đồng bào dân tộc thiểu số là những chủ thể sử dụng đất đặc biệt, do đó pháp luật đất đai đã có những quy định cụ thể về việc chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của các chủ thể này tại Điều 191, Luật đất đai số 45/2013/QH13 (sau đây gọi tắt là Luật đất đai 2013), cụ thể như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống xen kẽ trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhưng chưa có điều kiện chuyển ra khỏi phân khu đó thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất rừng kết hợp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong phân khu đó.
Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó.
Đây là quy định tương ứng với quy định tại Khoản 4, Điều 191, Luật đất đai 2013 về trường hợp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Theo đó, hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng đó. Với tính chất đặc trưng của đát rừng phòng hộ, đất đặc dụng, nếu không sống trong khu vực rừng phòng hộ, rừng đặc dụng sẽ không nắm bắt rõ được việc sử dụng đất trong các khu vực này như thế nào, cũng như các cách xử lí khi có vấn đề xảy ra. Do vậy, việc quy định chỉ các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong khu vực này mới được nhận chuyển nhượng, tặng cho nhằm đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống sau khi nhận chuyển nhượng, tặng cho của người nhận.
Khoản 3, Điều 192, Luật đất đai 2013 quy định như sau:
"3. Hộ gia đình, cá nhân là dân tộc thiểu số sử dụng đất do Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm, kể từ ngày có quyết định giao đất theo quy định của Chính phủ".
Quy định này được hướng dẫn cụ thể tại Điều 40, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không còn nhu cầu sử dụng do chuyển khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú để đến nơi khác hoặc do chuyển sang làm nghề khác hoặc không còn khả năng lao động.
Từ quy định trên, ta có thể hiểu hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số không được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất trong thời hạn 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất hoặc sau thời hạn 10 năm, chuyển khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú để đến nơi khác hoặc do chuyển sang làm nghề khác hoặc không còn khả năng lao động mà không được UBND cấp xã nơi có đất xác nhận không còn nhu cầu sử dụng.
Thêm vào đó, theo quy định tại Khoản 2, Điều 40, Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì không chỉ có hộ gia đình, cá nhân mà cả tổ chức cũng có thể được nhận chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số nếu đáp ứng đủ điều kiện đó là việc tặng cho, chuyển nhượng sau thời hạn 10 năm kể từ ngày giao đất và có xác nhận của UBND cấp xã nơi có đất.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh