BLTTHS 2015 quy định chứng cứ như thế nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:08 (GMT+7)

Bài viết trình bày về chứng cứ trong quá trình hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015.

Trong quá trình chứng minh, muốn giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, muốn xác định sự thật khách quan, có cơ sở để kết luận đúng về hành vi phạm tội đã xảy ra thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có tài liệu, chứng cứ để chứng minh bản chất của người phạm tội.

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) về chứng cứ được quy định như sau:

“Điều 86. Chứng cứ

Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.”

2. Quy định BLTTHS 2015 về chứng cứ

Chứng cứ là những gì có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách quan. Vụ phạm tội xảy ra là hoạt động vật chất, để lại thông tin dấu vết làm biến đổi môi trường xung quanh và chính cả người phạm tội, nên tồn tại khách quan. Qúa trình phát hiện các thông tin dấu vết vật chứng về tội phạm và vụ án là quá trình thu thập thông tin chứng cứ, chứng minh tội phạm, là quá trình hoạt động vật chất nên tồn tại khách quan. Vì vậy, chứng cứ được sử dụng làm căn cứ để xác định tội phạm, người phạm tội và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, phải tồn tại trong thực tế khách quan, nói cách khác chứng cứ phải có tình khách quan.

Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của những người tiến hành tố tụng. Điều này đòi hỏi những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nhận thức đúng về chúng. Nếu nhận thức không đúng, chủ quan, suy diễn về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, thì những tài liệu phản ánh nhận thức của họ không khách quan, không được công nhận là chứng cứ.

Chứng cứ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dùng làm căn cứ để xác định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, vì vậy chứng cứ phải có tính liên quan tới vụ án đang điều tra thụ lý. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thu thập được nhiều tài liệu khác nhau, nhưng chỉ những tài liệu nào có liên quan có khả năng làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án, mới có thể được coi là chứng cứ.

Để được xác nhận là chứng cứ, ngoài việc phải thỏa mãn tính khách quan và có tính liên quan, còn thỏa mãn tính hợp pháp, tức là chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thử tục do BLTTHS quy định.

Nếu như tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ thể hiện phương diện khách quan, thì tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện phương diện pháp lý. Đây là 3 thuộc tính của chứng cứ, không thể thiếu thuộc tính nào, thể hiện nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự.

Chứng cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.”

Như vậy, xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì một thông tin, tài liệu chỉ có thể được coi là chứng cứ của vụ án khi nó có đủ ba thuộc tính sau:

-Tính khách quan: Là những gì có thật và phản ánh trung thực những tình tiết của vụ án hình sự đã xảy ra.

- Tính liên quan: Có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với vụ án. Nhưng cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì đó cũng phải là mối quan hệ nội tại, có tính nhân quả, tức là chứng cứ phải là kết quả của một loại hành vi hoặc hành động hoặc một quan hệ nhất định, ngược lại, hành vi, hành động hoặc quan hệ đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành các chứng cứ này.

- Tính hợp pháp: Tất cả những gì có thật phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, bảo quản theo một trình tự do luật định. Đây là trình tự nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ.

Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan. Như vậy, quá trình chứng minh thực chất và nói chung là quá trình giải quyết chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng hình sự đều được mở ra và kết thúc từ vấn đề chứng cứ, xuất phát từ chứng cứ. Vì vậy, chứng cứ là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn của hoạt động tố tụng hình sự. Việc nhận thức đúng vấn đề chứng cứ sẽ là cơ sở lý luận, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá chứng cứ.

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư