Hình phạt đối với tội mua bán người là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:41:58 (GMT+7)

Hình phạt đối với tội mua bán người

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Trong bài viết trước, Luật Hoàng Anh đã làm rõ thế nào là tội phạm mua bán người thông qua việc phân tích 04 dấu hiệu của tội phạm cụ thể là khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm. Trong bài viết này, Luật Hoàng Anh sẽ làm rõ hình phạt mà người phạm tội phải chịu cũng như các tình tiết định khung hình phạt.

1. Hình phạt đối với người phạm tội mua bán người

Điều 150 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với tội mua bán người như sau:

- Khoản 1 Điều 150 quy định khung hình phạt phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác thực hiện một trong các hành vi sau đây:

a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác;

b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác;

c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này.

- Khoản 2 Điều 150 quy định khung hình phạt phạt tù từ 08 năm đến 15 năm người phạm tội thực hiện hành vi mua bán người thuộc một trong những trường hợp sau:

a) Có tổ chức;

b) Vì động cơ đê hèn;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều này;

d) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

đ) Đối với từ 02 người đến 05 người;

e) Phạm tội 02 lần trở lên.

- Khoản 3 Điều 150 quy định khung hình phạt phạt tù từ 12 năm đến 20 năm khi người phạm tội thực hiện hành vi mua bán người thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;

đ) Đối với 06 người trở lên;

e) Tái phạm nguy hiểm.

- Khoản 4 Điều 150 quy định khung hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội mua bán người, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

2. Các tình tiết định khung hình phạt cụ thể

- Có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ và phân công, sắp đặt vai trò của những người cùng thực hiện tội phạm.

- Vì động cơ đê hèn là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội để trả thù; phạm tội để trốn tránh trách nhiệm của bản thân; phạm tội đối với người mà mình mang ơn hoặc những hành vi phạm tội khác thể hiện sự bội bạc, phản trắc.

Ví dụ: Nguyễn Văn A mang Nguyễn Thị C (là người yêu của A) đi bán cho người khác sau khi biết C có thai với mình.

- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên  là trường hợp người phạm tội mua bán người chưa lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân nhưng gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân ở mức đáng kể. Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

- Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trường hợp người phạm tội đã hoặc đang đưa nạn nhân ra khỏi biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trong lòng đất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng được coi là đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nếu đã thực hiện thủ tục xuất cảnh đối với nạn nhân.

- Đối với từ 02 người trở lên là trường hợp nạn nhân bị mua bán là từ 02 người trở lên. Trường hợp này, người phạm tội đã mua bán người trên diện rộng, ảnh hưởng đến nhiều người. Nhà làm luật cũng quy định nếu số nạn nhân từ 02 đến 05 người thì người phạm tội chịu trách nhiệm theo Khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự còn nếu số nạn nhân từ 06 người trở lên thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm theo Khoản 03 Điều này.

- Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi từ 02 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ví dụ: Ngày 15-6-2018, Nguyễn Văn A có hành vi mua bán người. Ngày 20-7-2018, A lại có hành vi mua bán người và bị bắt giữ. Cả hai lần phạm tội trên, Nguyễn Văn A đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Trong trường hợp này, Nguyễn Văn A bị truy cứu trách nhiệm về tội mua bán người theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 150 của Bộ luật Hình sự.

- Có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi từ 05 lần trở lên (không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích) và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi làm nguồn sống chính.

- Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó đã lấy đi bộ phận cơ thể của nạn nhân.

- Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy mua bán người người trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã mua bán  người khác hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội mua bán người, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục mua bán người khác.

- Làm nạn nhân chết là trường hợp nạn nhân trong quá trình bị mua bán đã chết ví dụ những người phạm tội đã dùng vũ lực trong quá trình mua bán người khiến nạn nhân chết,... nếu nạn nhân bị chết không phải là do quá trình mua bán mà do nguyên nhân khác như bệnh nhân bị bệnh,... thì người phạm tội không bị truy cứu về tình tiết này.

Làm nạn nhân tự sát là trường hợp là trường hợp bởi vì mua bán người, nạn nhân cảm thấy không còn mong muốn sống tiếp nên đã tự sát.

3. Vụ án thực tế xét xử về tội mua bán người

Bản án số 37/2021/HS-ST  ngày  15-3-2021 “V/v xét xử bị cáo Trần Văn H phạm tội mua bán người” của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.[1]

Khoảng tháng 10/2016 chị Trần Thị Tr, sinh ngày 06/01/2001 ở thôn H, xã N,huyện X,  tỉnh  Thanh  Hóa  cùng  với  nhóm  bạn  là  Đậu  Thị  Y,  sinh  ngày 15/02/2001  ở  thôn  N,  xã  Q,  huyện X,  Thanh  Hóa;Ngô  Thu  Tr,  sinh  ngày 09/3/2004 ở thôn N,  xã T, huyện X, tỉnh Thanh Hóa; Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 ở thôn T, xã N, huyện X, tỉnh Thanh Hóa và Bùi Văn Q, sinh ngày 04/9/1993 ở Thôn H, xã N, huyện X, tỉnh Thanh Hóa rủ nhau sang Trung Quốc để làm ăn. Do có quen biết với Trần Văn Q (Q là anh họ của chị Y) nên nhóm bạn của chị Tr liên hệ với Q qua mạng Zalo để được đưa sang nước Trung Quốc đi làm ăn. Trần Văn Q đồng ý với chi phí mỗi người đi sang Trung Quốc là 3.500.000 đồng. Sau đó, Q hướng dẫn nhóm bạn của chị Tr đón xe, đi theo đường tiểu ngạch để sang Trung Quốc sẽ có người đón. Chị Trần Thị Tr và chị Đậu Thị Y cùng nhóm bạn đón xe khách ra thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh rồi gọi điện cho Q. Q gọi cho một người phụ nữ khoảng 35 tuổi (không lai lịch) đến đón chị Y, chị Tr và  cùng nhóm bạn đưa đến đường biên giới Việt Nam –Trung Quốc, cách cửa khẩu khoảng 01 km để 05 người đi đò sang bên Trung Quốc, còn người phụ nữ này không đi cùng. Khi sang đến biên giới Trung Quốc có một người đàn ông đến đón, đưa ra bến xe và chuyển đổi nhiều chuyến xe để đưa đón nhóm bạn của Trần Thị Tr vào địa phận Xuân Hiến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc thì Trần Văn Q ra đón, tất cả chi phí đi lại do Trần Văn Q trả. Khi sang đến Trung Quốc, ngày hôm sau Trần Văn Q đưa anh Q và anh T làm ở một xưởng ví; chị Y, chị Ngô Thu Tr (thường gọi Tr Tùng) và chị Trần Thị Tr (thường gọi Tr Trầu) làm ở một xưởng ví da khác lương tháng mỗi người được trả tương đương từ 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng tiền Việt Nam.

Quá trình làm việc tại Trung Quốc, chị Trần Thị Tr có quan hệ quen biết và nảy sinh tình cảm với Trần Văn H (tức Hai Lò), sinh năm 1997 ở thôn T,  xã  Q, huyện X,  Thanh  Hóa. Trần Thị Tr và Hai có xin số điện thoại Zalo và thường xuyên nói chuyện với nhau qua mạng Zalo. Ngày 10/01/2017, Trần Văn H đi xe taxi đến đón chị Trần Thị Tr và Ngô Thu Tr đến nhà một người tên là Mạnh quê tỉnh Vĩnh Phúc, hiện sinh sống ở Trung Quốc (chưa rõ tên tuổi, địa chỉ, nhân thân đối tượng). Khoảng 23 giờ cùng ngày, H rủ chị Trần Thị Tr (Trầu) đi chơi còn để chị Ngô Thu Tr (Tùng) ở lại nhà Mạnh, sau đó chị Trần Thị Tr đi cùng H về phòng trọ của H để ngủ, chị Tr có hỏi H thì H nói chị Tr (Tùng) đã về công ty ngủ trước. Ngày 11/01/2017, chị Trần Thị Tr đi làm nhưng không thấy chị Ngô Thu Tr đi làm, không rõ đi đâu làm gì. Ngày 12/01/2017 chị Trần Thị Tr tiếp tục đi chơi cùng H rồi sau đó về phòng trọ của H ngủ. Ngày  13/01/2017, chị Trần Thị Tr đi chơi cùng H và Lê Văn Đ (tức  Đ chòe, là bạn của H), sinh năm 1996 ở thôn Nam, xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Sau đó Hai đưa chị Tr và Đ đến nhà Mạnh chơi. Tại đây, H nói với Tr hiện đang còn nợ Mạnh số tiền 6.000 Nhân dân tệ (NDT) muốn nhờ Tr nhận nợ hộ H.

Do có tình cảm với Hai nên chị Tr đồng ý viết giấy nhận nợ hộ cho H, Trần Văn H hứa khi nào có tiền sẽ trả cho Tr để Tr trả cho Mạnh.

Sau khi Trần Thị Tr viết giấy nhận nợ với Mạnh 6.000 nhân dân tệ thì H và Đ cùng Mạnh đi ra khỏi nhà, còn Tr ở lại nhà Mạnh. Cả 03 đi đến quán nước cách nhà Mạnh khoảng 1,5km, Mạnh đã đưa cho H 3.000 NDT và trước đó H còn nợ Mạnh 1.000 NDT nên Mạnh trừ luôn vào số tiền 6.000 NDT mà chị Tr đã viết giấy nhận nợ.

Mặc dù, chị Tr viết giấy nhận nợ hộ H là 6.000 NDT nhưng Mạnh chỉ đưa cho Trần Văn H số tiền 3.000 NDT và trừ nợ 1.000 NDT, số tiền 2.000 NDT còn lại Mạnh nói dùng để tính vào tiền mua sắm đồ Tr điểm cho chị Tr, để buộc chị Tr phải làm việc cho Mạnh.

Sau khi nhận tiền từ Mạnh, H đưa Đ đi mua sắm để Đ bắt xe về Việt Nam, còn H đi về phòng trọ của mình. Sau khi Mạnh quay về nhà và nói với chị Tr là H không vay được tiền thì chị Tr đề nghị Mạnh cho Tr đi về làm ví để lấy lương trả nợ cho Mạnh nhưng Mạnh không đồng ý và nói với chị Tr: “Mày phải đi làm gái thì mới đủ tiền trả nợ cho tao”. Chị Tr xin được về nhưng Mạnh không đồng ý.

Ngày 14/01/2017, Mạnh đưa chị Tr đến nhà một người đàn ông tên Quyết chứa mại dâm là người Việt Nam đang sinh sống tại Trung Quốc (hiện chưa rõ nhân thân, lý lịch của Quyết). Tại đây, chị Tr hỏi Mạnh“Có phải thằng Hai lò bán em không”. Mạnh trả lời: “Không, nó không bán”. Quyết có hỏi Mạnh ai là người đưa gái (tức Tr) lên đây. Mạnh nói:“Thằng Hai lò đưa con này lên đây lấy trước 4.000 NDT tiền hoa hồng”.

Sau đó, tại nhà Quyết chị Tr gặp lại chị Ngô Thu Tr (Tùng), ngày hôm sau các đối tượng đã đưa và tách chị Tr (Tùng) đi nơi khác, không cho hai người ở cùng nhau. Khi biết mình bị lừa bán cho Quyết để làm gái mại dâm, chị Tr đã trốn về xưởng làm ví nơi chị Đậu Thị Y đang làm việc thì bị Mạnh tìm đến và bắt về, Tr kêu lên: “Báo Công an cho cháu với, thằng Hai lò nó bán cháu rồi”, lúc này Mạnh bịt miệng chị Tr lại và nói: “Bay đừng nghe nó, nó nợ tiền tao và nhận tiền nợ của thằng Hai lò”sau đó Mạnh đưa chị Tr về nhà Quyết.

Đến ngày 17/01/2017,chị Trần Thị Tr trốn được và bắt xe ôm chạy về phòng trọ của Trần Văn Q. Tại đây, chị Tr nói với Q bị H lừa bán vào quán để bán dâm và nhờ Q đưa về Việt Nam. Ngày hôm sau, Trần Văn  Q đưa chị Tr ra bến xe để về Việt Nam theo đường tiểu ngạch. Đến tết âm lịch năm 2017 Trần Văn Q về quê và đến nhà chị Đậu Thị Y, chị Trần Thị Tr để đòi tiền phí đưa sang Trung Quốc (chị Y là 3.500.000 đồng; chị Tr cả đưa đi, đưa về là 7.000.000 đồng; anh Q là 4.000.000 đồng) do các gia đình bị hại khó khăn nên Q chưa lấy được tiền.

Sau khi trốn được về Việt Nam, chị Trần Thị Tr kể lại sự việc bị Trần Văn H lừa bán cho gia đình biết nên ngày 20/01/2017 ông Trần Ngọc P, là bố của chị Trần Thị Tr đã làm đơn tố cáo Trần Văn H về hành vi Mua bán người.

Đến ngày 08/7/2020 Trần Văn H đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa xin đầu thú và khai báo hành vi phạm tội của mình.

Đối với hành vi của Trần Văn Q tổ chức đưa người khác trốn đi nước ngoài trái phép. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đã chuyển tin báo vụ việc đến Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.

Đối với hành vi chuyển giao, tiếp nhận mua bán chị Trần Thị Tr của người có tên là Mạnh và Quyết (hiện nay chưa rõ lai lịch) Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đang tiếp tục, phối hợp điều tra, xác minh khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Việc chị Ngô Thu Tr có dấu hiệu bị mua bán, nhưng không biết là ai nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa đang tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Tóm lại, các bị cáo đã thực hiện tội phạm như sau:

Vào khoảng tháng 10/2016 chị Trần Thị Tr cùng với nhóm bạn sang Trung Quốc làm thuê tại các xưởng sản xuất ví da, sau đó quen biết với Trần Văn H.

Đến ngày 13/01/2017 lợi dụng tình cảm yêu đương nên Trần Văn H rủ chị Tr đến nhà một người có tên là Mạnh (chưa rõ lai lịch) để chơi.

Tại đây, Hai dụ dỗ, lừa gạt chị Tr viết giấy nhận nợ hộ mình với anh Mạnh số tiền 6.000 Nhân dân tệ, sau khi chị Tr viết giấy nhận nợ thì Mạnh đi ra quán nước đưa cho Hai số tiền 3.000 Nhân dân tệ và trừ nợ 1.000 nhân dân tệ; còn 2.000 Nhân dân tệ, Mạnh giữ lại để tính tiền mua sắm đồ cho chị Tr, đến ngày hôm sau Mạnh đưa chị Tr đến nhà một người đàn ông tên Quyết (chưa rõ lai lịch) làm nghề chứa mại dâm và giao chị Tr cho Quyết. Khi biết mình bị Trần Văn H lừa bán làm gái mại dâm, chị Tr bỏ trốn về Việt Nam làm đơn tố cáo Trần Văn H và các đồng phạm.

Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa tuyên bố Bị cáo Trần Văn H phạm tội: "Mua bán người", xử phạt bị cáo Trần Văn H 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành  hình phạt tù kể từ ngày 08/7/2020.

Luật Hoàng Anh


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta681929t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập 19/06/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư