2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất. Đây là nguồn chứng cứ rất quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Căn cứ Điều 91 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về lời khai của người làm chứng được quy định như sau:
“Điều 91. Lời khai của người làm chứng
1. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.”
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 BLTTHS 2015 có quy định về khái niệm của người làm chứng như sau: “Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng”. Lời khai của người làm chứng là sự trình bày bằng miệng của người làm chứng về những gì mà họ biết nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại.
Lời khai của người làm chứng là môt trong những nguồn chứng cứ lâu đời và phổ biến nhất. Luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đều quy định về nguồn chứng cứ này, bởi lẽ nguời làm chứng nắm bắt được diễn biến của vụ án hình sự, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội, người bị hại…. Đây là nguồn chứng cứ quan trọng góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự.
Với yêu cầu là khai thác tối đa những gì mà người làm chứng biết được về vụ án, trả lời những câu hỏi đặt ra nhằm giải quyết đúng đắn vụ án.
Cần làm rõ mối quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác để có cơ sở kiểm tra, đánh giá tính khách quan thông tin từ lời khai của họ.
Việc làm chứng trước các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước; vì vậy, nếu người làn chứng từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cung cấp tài liệu sau sự thật hoặc khai báo gian dối, được quy định tại Điều 382 BLHS 2015:
“Điều 382. Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
1. Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa nào mà kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Trong điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, khi thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng, phải chú ý cả những yếu tố khách quan lẫn những yếu tố chủ quan ảnh hưởng tới mức độ chính xác trong lời khai của người làm chứng: thời gian người làm chứng tri giác sự kiện, hiện tượng ngắn; khoảng thời gian từ khi tri giác sự kiện, hiện tượng cho đến khi cung cấp lời khai cho các cơ quan tiến hành tố tụng quá lâu; khoảng cách từ người làm chứng đến đối tượng được tri giác quá xa; điều kiện thời tiết không thuận lợi cho việc tri giác như sương mù, mưa, gió...); những kẻ phạm tội đã cố ý ngụy trang vấn đề mà người làm chứng đã nhận biết, tri giác; người làm chứng có mối quan hệ gia đình, công tác... với bị can, bị cáo hoặc người bị hại; một số giác quan của người làm chứng có khuyết tật; người làm chứng không chú ý đến sự kiện, hiện tượng đã tri giác... Trong trường hợp lời khai của những người làm chứng về cùng một sự kiện, hiện tượng có mâu thuẫn với nhau, thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ mâu thuẫn đó, chứ không được áp đặt, suy diễn theo ý chí chủ quan.
Ví dụ Về lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự[1]: Trong vụ án chị T. T. T. D bị giết, cướp, hiếp dâm xảy ra ngay 24/01/1998 tại ấp Bến Cam, xã Phước Thiều, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, một số người làm chứng khai rằng khi uống rượu ở Trung tâm xúc tiến việc làm, anh Bùi M. H vẫn tỉnh táo, trong khi đó ba người làm chứng khác là anh D, chị N, anh Tư V khai rằng anh H có biểu hiện say xỉn, nằm gác chân lên xe máy ở vệ đường ngủ, phải lay dậy mới biết, nhưng Cơ quan điều tra không xác minh, mà đã vội kết luận anh H giả vờ say; hoặc anh H rơi đồng hồ, sáng hôm sau đã đến nhờ chị Nhung tìm ở nhiều nơi nhưng không thấy và điều này được người làm chứng xác nhận, Cơ quan điều tra cũng không xác minh, đã vội vàng kết luận đó là hành vi, thủ đoạn tạo hiên trường giả của anh H ... Những sai sót trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng nói trên cùng nhiều sai sót khác của các cơ quan tiến hành tố tụng, đã dẫn đến việc điều tra, truy tố, xét xử oan anh B. M. H và các cơ quan tiến hành tố tụng đã phải bồi thường cho anh H sáu mươi triệu đồng.”
Và trong quá trình lấy lời khai nếu người làm chứng không nói rõ được vì sao họ biết được về những tình tiết vụ án mà người đó trình bày thì không được dùng làm chứng cứ của vụ án. Đây là cơ sở để đánh giá mức độ khách quan của lời khai, đồng thời có cơ sở để cần thiết thì dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra, đối chất.
Như vậy, lời khai của người làm chứng có một ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, góp phần cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và nhanh chóng.
Luật Hoàng Anh
[1] Website: https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/49 truy cập
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh