2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, tuỳ theo từng vụ án mà toà án ra bản án hoặc các quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án. Bản án và quyết định của toà án khi đã có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Nhà nước ta.
Căn cứ Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được quy định như sau:
“Điều 28. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
1. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án.”
Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là văn bản đánh dấu sự kết thúc của quá trình điều tra, truy tố, xét xử, có ý nghĩa trên nhiều phương diện. Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành”
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, Điều 106 Hiến pháp 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.” Nguyên tắc Hiến định này đã được BLTTHS quy định là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; thể hiện sức mạnh, tính hiệu quả của pháp luật trên thực tế và có ý nghĩa lớn đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bản án, quyết định của toà án là văn bản tố tụng khác nhau do toà án ban hành trong quá trình giải quyết vụ án. Bản án của tòa án quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác.Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Quyết định của hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, cá nhân, cơ quan và tổ chức hữu quan phải chấp hành bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Bên cạnh việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Điều luật cũng quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Người có hành vi không thi hành bản án, không chấp hành án, cản trở việc thi hành án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng quy định tại các Điều 379 – quy định về tội không thi hành án, Điều 380- Tội không chấp hành án, Điều 381 – quy định về tội không chấp hành án được quy định tại BLHS năm 2015.
Hiện nay, để góp phần bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của Toà án, các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân, trong phạm vi trách nhiệm được pháp luật quy định phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án trong việc thi hành án. Đây là quy định mới được bổ sung vào Bộ luật tố tụng hình sự nhằm đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân trong việc phối hợp với các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án trong việc thi hành án. Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, theo quy định của pháp luật không có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án thì có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án. Đây cũng là quy định mới đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn trong việc tạo điều kiện và thực hiện các yêu cầu của các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án.
Điều luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 22 BLTTHS 2003 quy định về nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án, BLTTHS 2015 đã lược bỏ cụm từ quy định về chủ thể có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ thi hành bản án là “ cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn” và thay bằng cụm từ mang tính chất khái quát hơn là “ cơ quan, tổ chức, cá nhân”
Như vậy, việc xét xử của toà án nói chung, trong đó có việc xét xử các vụ án hình sự chỉ có ý nghĩa khi bản án, quyết định của toà án sau khi có hiệu lực pháp luật phải được thi hành trên thực tế. Nguyên tắc này không chỉ xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân liên quan trong việc thi hành bản án và quyết định của toà án.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh