Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định như thế nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:06 (GMT+7)

Bài viết trình bày về nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của BLTTHS 2015.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự được quy định như sau:

 “Điều 33. Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

2. Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.”

2. Nội dung nguyên tắc

Điều luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 32 của BLTTHS 2003 quy định về nguyên tắc bảo đảm việc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự.

Điều luật này quy định nhiệm vụ “kiểm tra, kiểm soát” và “giám sát” trong tố tụng hình sự của hai chủ thể khác nhau. Theo đó, nhiệm vụ “kiểm tra” việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của cơ quan, người có thẩm quyền; hay thực hiện “kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết các nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án là của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Nhiệm vụ này phải được tiến hành một cách thường xuyên nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm để kiến nghị chủ thể vi phạm khắc phục, sửa chữa kịp thời.

Hoạt động kiểm tra trong tố tụng hình sự là việc xem xét, nhận xét, đánh giá thực trạng tiến hành tố tụng. Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những vấn đề trái với quy định của Luật. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là những hoạt động mang tính hành chính và phải được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện thường xuyên, liên tục để đánh giá kết quả các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của mình.

Việc kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thực hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra (định kỳ hoặc đột xuất) trong ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án; qua công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND (được quy định tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014 ) qua công tác phối hợp liên ngành.

Để thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát trong tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền phải chủ động, nghiêm túc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, khi phát hiện sai phạm trong hoạt động tố tụng phải thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lí nghiêm cá nhân vi phạm pháp luật, tránh tình bao che sai phạm.

Giám sát là công cụ cần thiết của việc củng cố pháp chế trong quá trình hoạt động của Nhà nước cũng như các bộ phận cấu thành Nhà nước, đặc biệt là hoạt động của cơ quan tư pháp. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền giám sát của cơ quan, tổ chức và nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, góp phần phòng ngừa và khắc phục oan sai, bỏ lọt tội phạm, BLTTHS 2015 quy định việc giám sát trong hoạt động tố tụng thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước, UBMTTQVN  và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử và có quyền kiến nghị nếu phát hiện vi phạm.

 Theo khoản 1 Điều 25 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015:

“Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc UBMTTQVN các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá, kiến nghị đối với hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách pháp luật.”

Hình thức giám sát của MTTQVN là nghiên cứu xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tổ chức đoàn giám sát; thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân được thành lập ở cấp xã, Ban giám sát đầu tư công cộng, tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ( quy định tại Điều 27 Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam 2015).

Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu của các chủ thể có quyền giám sát theo quy định của pháp luật. Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biêu dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của BLTTHS.

So với quy định về nguyên tắc giám sát trong tố tụng hình sự được để cập tại Điều 32 BLTTHS 2003, nguyên tắc giám sát trong tố tụng hình sự được đề cập trong BLTTHS năm 2015 có sự thay đổi, điều chỉnh và bổ sung thêm nguyên tắc kiểm tra. Bên cạnh quy định về quyền, trách nhiệm giám sát của các cơ quan nhà nước, UBMTTQVN và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử; các cơ quan,người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng như việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hàng tố tụng; điều luật còn bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc “ thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền, thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án” nhằm đề cáo trách nhiệm của các chủ thể này.

Như vậy, việc kiểm tra, giám sát áp dụng pháp luật trong hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bảo đảm tính công khai, rõ ràng, minh bạch trong hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân thông quan cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động tư pháp. Qua đó góp phần bảo đảm cho hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và oan sai.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư