Nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu như thế nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:04 (GMT+7)

Bài viết trình bày về nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, không ai bị buộc tội, khi chưa có đủ chứng minh, chứng cứ cho rằng họ đã có tội và mỗi chủ thể được coi là phạm tội chỉ khi có bản kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

1. Cơ sở pháp lý

“Điều 13. Suy đoán vô tội

Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

2. Nội dung nguyên tắc

Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp 2013:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”

Từ nội dung nguyên tắc trên ta thấy, trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự thì cần phải đảm bảo:

Thứ nhất, bị can, bị cáo phải được coi là không có tội cho đến khi các Cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) chứng minh được lỗi của bị can, bị cáo, tức là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải xác minh chứng cứ, các tài liệu đồ vật liên quan đến vụ án, trước khi phán quyết rẳng chủ thể đó đã phạm tội và đưa ra phán quyết không có căn căn. Yêu cầu này đặt ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự, bởi vì quyền con người là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm và cũng dựa trên nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, nên các hoạt động của cơ quan có thẩm quyền cũng như người có thẩm quyền đều được quy định một cách chặt chẽ, các quy trình , trình tự thủ tục cũng phải tuân thủ theo BLTTHS năm 2015, các quy định trên đưa ra để khi giải quyết một vụ án, chúng ta sẽ không có sự sai sót, hay có những kẽ hở nào tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm cũng như đổ tội oan cho người vô tội. Và qua đó cũng phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về quyền dân sự và chính trị; theo đó mọi người có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ; người bị buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.

Thứ hai, việc truy tố và xét xử phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này bảo đảm nguyên tắc pháp chế, là dấu hiệu quan trọng của chế độ pháp quyền XHCN. Theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi cao nhất cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện và phù hợp với công ước của Liên hợp quốc đó là: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và đúng thủ tục mà pháp luật quy định.”

Thứ ba, phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện nhất, từ đó làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh này thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không phải chứng minh là mình vô tội.

Thứ tư, lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội và kết tội, được quy định tại khoản 2 Điều 98 BLTTHS năm 2015. Nếu trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng dùng lời khai của bị can, bị cáo để làm chứng cứ chứng minh thì sẽ không còn khách quan nữa, mà ở đây các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án không có sự toàn diện, sâu rộng mang tính chủ quan và không khách quan, có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm.

Chúng ta có thể hiểu thông qua một ví dụ như sau: “Vì đã có mâu thuẫn từ trước nên A (55 tuổi) đã ra tay sát hại B khiến B tử vong. Cơ quan điều tra đang trong thời gian vào cuộc điều tra xác minh làm rõ vụ án thì C đã tự ra đầu thú và nhận hết tội danh giết người thuộc về mình. Sau khi thấy C đã ra tự thú nhận tội, cơ quan điều tra đã dừng điều tra vụ án và chuyển sang giai đoạn tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”.

Chính vì vậy nên lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác và không nên dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo là căn cứ duy nhất để buộc tội họ.

Thứ năm, khi có hoài nghi về trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo mà Cơ quan tiến hành tố tụng không thể làm rõ được thì những hoài nghi đó phải được giải quyết theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo.

Bất kỳ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định. Qúa trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thông qua các thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trường hợp bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật thì CQTHTT, người tiến hành tố tụng phải quan tâm, tạo điều kiện cho người bị kết án trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận công khai, dân chủ trước Tòa án để chứng minh họ không có tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị buộc tội đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm sáng tỏ căn cứ đẻ buộc tội, kết tội thì phải kết luận họ không có tội.

 Kết luận: Đây là điều luật được sửa đổi, bổ sung từ Điều 9 BLTTHS năm 2003. So với Điều 9 BLTTHS 2003 “ Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”, Điều 13 BLTTHS năm 2013 quy định rõ tên của nguyên tắc: “ Suy đoán vô tội” để phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp 2013 về bảo đảm quyền được suy đoán vô tội cho người bị buộc tội và bổ sung đầy đủ nội dung, trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong nguyên tắc này.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư