2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Tranh tụng trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật ghi nhận các nguyên tắc tranh tụng, trình tự thủ tục thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, xác định trách nhiệm của các chủ thể tranh tụng và các chế tài xử lý vi phạm thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự, chi phối và định hướng mọi hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo cho quá trình xét xử công bằng, minh bạch và công khai, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên được pháp luật công nhận và bảo vệ đồng thời xác định trách nhiệm của các bên tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình tham gia tố tụng.
Căn cứ Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) tuân thủ pháp luật về thực hiện tranh tụng trong xét xử được quy định như sau:
“Điều 26. Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.”
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.”Cụ thể hóa nguyên tắc này, Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định tranh tụng trong hoạt động xét xử là một nguyên tắc độc lập. Quy định mới này cũng đã thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp. Cụ thể, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2012 của Bộ Chính trị “ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu “ việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện những chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo… để đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật có sức thuyết phục.”
Ngoài ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp.”Có thể nhận thấy quan điểm chỉ đạo, xây dựng pháp luật về tranh tụng trong xét xử được quan tâm coi đây là hoạt động đột phá không chỉ trong hoạt động xét xử tại phiên tòa mà Hiến pháp 2013 và Điều luật này đã khẳng định tranh tụng là nguyên tắc xuyên suốt, quan trọng của các giai đoạn tố tụng được bảo đảm từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, Nguyên tắc tranh tụng còn được thể hiện rõ nét tại các điều luật cụ thể trong BLTTHS, đặc biệt trong chương V: Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đưỡng sự, được quy định cụ thể chi tiết tại Điều 72 BLTTHS năm 2015 về người bào chữa:
“1. Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.
2. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện của người bị buộc tội;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.”
Như vậy, người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Nhiệm vụ và mục đích của người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội và giúp người buộc tội về mặt pháp lý để bảo đảm các quyền và lợi ích của họ.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và những người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Bởi vì, muốn cho vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì bên buộc tội, bên gỡ tội và những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần được giải quyết trong vụ án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và đưa ra những yêu cầu. Trước đây, quyền bình đẳng trong việc đưa chứng cứ, đưa yêu cầu của các bên liên quan trọng vụ án chỉ được thực hiện vào thời điểm tại phiên toà. Theo quy định hiện nay, quyền này được mở rộng cả về phạm vi quyền, thời gian cũng như về chủ thể được hưởng quyền.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện,các cơ quan tư pháp Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên phải nâng cao nhận thức và tạo lập môi trường dân chủ, bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ giai đoạn điều tra, truy tố, đến xét xử phải nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế được chủ quan, qua đó góp phần quan trọng để Tòa án xét xử, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, bảo đảm nền tư pháp công bằng, dân chủ. Bản án và quyết định của toà án là kết quả của hoạt động xét xừ của toà án và phản ánh thực trạng tranh tụng tại phiên toà. Vì vậy bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên toà.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử luôn luôn được bảo đảm, bởi nguyên tắc đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, đảm bảo tranh tụng trong Hiến pháp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực thực tiễn trong việc xét xử. Và việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đè để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh