2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Nhằm bảo đảm quyền tự do của mọi công dân, trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan, chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, tạm giữ, tạm giam người phạm tội để nhanh chóng kịp thời xử lý tội phạm, tránh cho những hậu quả xảy ra gây khó khăn cho công tác hoạt động tố tụng, tuy nhiên việc bắt và tạm giữ người cần phải thực hiện đúng theo quy định của BLTTHS 2015 quy định để bảo đảm tính khách quan và đảm bảo quyền bình đẳng, bất khả xâm phạm về quyền con người.
Được quy định cụ thể tại Điều 118 BLTTHS 2015
“Điều 118. Thời hạn tạm giữ
1. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.”
Điều luật quy định thời hạn tạm giữ trong 3 trường hợp:
a, Trường hợp bình thường: Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.
b, Trường hợp cần thiết: Đây là những trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp đòi hỏi phải có thêm thời gian để làm rõ hành vi phạm tội, hoặc xác minh thêm về căn cước, nhân thân của người bị tạm giữ. Trong trường hợp này, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn nhưng không quá 3 ngày.
c, Trường hợp đặc biệt: đây là những vụ án phức tạp mà Cơ quan Điều tra chưa làm rõ vụ việc mặc dù đã gia hạn tạm giữ một lần. Trong trường hợp này, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không quá 03 ngày.
Nhằm tránh việc tùy tiện trong việc gia hạn tạm giữ, xâm phạm đến quyền của người bị tạm giữ, pháp luật quy định mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì ra quyết định trả tự do cho người bị giữ.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Thời gian tạm giữ được trừ vào thời gian tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Ví dụ: Một người bị tạm giữ từ ngày 12/10/2019 đến ngày 17/10/2019 (6 ngày), sau đó thì có quyết định tạm giam 2 tháng. Trong trường hợp đó, thời hạn tạm giam được tính từ ngày bị tạm giữ (12/10/2019).
Điều luật được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 87 BLTTHS 2003, quy định các vấn đề liên quan đến thời hạn tạm giữ. Theo đó Điều luật bổ sung mốc thời gian để tính thời hạn tạm giữ là: “kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú.” Đặc biệt, trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, để nhằm bảo đảm quyền tư do của công dân, bảo đảm quyền con người.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh