2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Pháp luật quy định, chủ thể thực hiện tội phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Vậy người không có trách nhiệm hình sự phạm tội bị xử lý như thế nào? Câu trả lời sẽ có trong nội dung bài viết dưới đây.
Điều 21 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau:
“Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn yếu tố chủ thể trong cấu thành tội phạm. Cụ thể, chủ thể không đáp ứng điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự: “... do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện...”.
Điều 21 Bộ luật hình sự quy định chi tết vấn đề này gồm 03 yếu tố chính sau:
Thứ nhất, có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Hành vi nguy hiểm ở đây được hiểu là hành vi có thể hoặc đã gây tổn hại đến các mối quan hệ được Bộ luật hình sự bảo vệ. Tức là, hành vi đó được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể trong Bộ luật hình sự.
Thứ hai, trong khi mắc các bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Có 02 dấu hiệu xác định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:
- Dấu hiệu y học: Người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần.
- Dấu hiệu tâm lý: Người đang trong tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người không có (không còn) năng lực nhận thức liên quan đến hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện, họ không biết, không đánh giá được hành vi của mình là đúng hay sai, có được làm hay không. Như vậy, họ cũng không có năng lực điều khiển hành vi của mình. Còn xảy ra một tường hợp khác cũng được coi là trongg trạng thái không có năng lực trách nhiệm hình sự: người đó có khả năng nhận thức nhưng không có khả năng kiểm soát hành vi của mình do có bệnh lý.
Chỉ được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi đồng thời thỏa mãn cả hai dấu hiệu về y học và tâm lý. Không phải loại bệnh tâm thần nào cũng gây ra tình trạng mất năng lực trách nhiệm hình sự, nó còn tùy thuộc vào loại bệnh tâm thần và mức độ bệnh tâm thần. Việc xác định một người có đang trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là nhiệm vụ của giám định tâm thần tư pháp.
Thứ ba, như đã khẳng định ban đầu, tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn yếu tố chủ thể trong cấu thành tội phạm. Nói cách khác, người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh