Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:03 (GMT+7)

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 169 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định là một trong các tội phạm thuộc chương tội phạm sở hữu. Hành vi nào được coi là phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản? Người phạm tội này phải chịu hậu quả pháp lý như thế nào?  Luật Hoàng Anh sẽ làm rõ quy định của pháp luật về tội phạm này trong bài viết dưới đây.

1. Căn cứ pháp lý

Điều 169 Chương XVII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

d) Đối với người dưới 16 tuổi;

đ) Đối với 02 người trở lên;

e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Làm chết người;

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

2.1. Khách thể của tội phạm

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản bao gồm 02 hành vi là bắt cóc và hành vi chiếm đoạt tài sản. Do đó, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản  không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản mà trước khi xâm phạm đến quyền sở hữu, nó đã xâm phạm đến quyền nhân thân của nạn nhân.

Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Trong quyền nhân thân có các quyền khác như Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể; Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,...

Quyền sở hữu tài sản của con người gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.

Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Người chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu do được uỷ quyền, được giao mà không kèm theo việc chuyển quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền chiếm hữu chỉ được thực thi trong phạm vi giới hạn của các hành vi và theo thời gian mà chủ sở hữu cho phép.

Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Việc sử dụng tài sản là một trong những quyền quan trọng và có ý nghĩa thực tế đối với chủ sở hữu.

Quyền định đoạt là quyền năng của chủ sở hữu để quyết định về “số phận” của tài sản, có thể là trưng bày, lưu giữ, tiêu dùng hết, huỷ bỏ..., hoặc cũng có thể là bán, cho, tặng,...

Điều 105 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 quy định về tài sản:

“Điều 105. Tài sản

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Như vậy, khách thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là quyền nhân thân và quyền sở hữu tài sản của con người, và các quy phạm pháp luật quy định về chế định sở hữu của con người.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội là hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.

Bắt cóc là hành vi bắt người trái pháp luật. Hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách lén lút và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó rồi tìm cách thông báo cho người thân của người bị bắt cóc biết, cùng với yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người bị bắt cóc, nếu không nộp tiền hoặc tài sản thì người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm.

Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ete, lừa dối... để bắt được người làm con tin. Thủ đoạn bắt cóc không có ý nghĩa trong việc định tội danh, những hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bắt người làm con tin chính là một  thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.

Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ ( người lớn, trẻ em, người già, nam giới, nữ giới..., không phân biệt tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội...).

Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác ( cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin ) nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ... Hành vi đe doạ người khác cũng có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin...

Cùng với việc đe doạ người khác, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi mà yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của mình nộp tiền hoặc tài sản như: đánh, trói, bắt nhịn ăn, nhịn uống, làm nhục, doạ giết, dọa đánh, dọa đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm... Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm.

Hậu quả của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người khác làm con tin là tội phạm đã hoàn thành. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.  

Trường hợp, người phạm tội chưa bắt cóc được người làm con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ... để bắt cóc nhưng bắt không được).

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người thực hiện hành vi miêu tả tại mặt khách quan của tội phạm, nhưng không phải ai thực hiện hành vi đó cũng đều là chủ thể của tội phạm mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật định mới là chủ thể của tội phạm.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 173 (Tội trộm cắp tài sản), 178 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản). Hành vi phạm tội quy định tại Khoản 1 Điều 169 Bộ luật Hình sự thuộc tội phạm nghiêm trọng, các hành vi phạm tội theo Khoản 2,3,4 Điều này thuộc loại tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, chủ thể của tội phạm là người từ đủ 14 tuổi trở lên đối với các tội quy định tại Khoản 2,3,4 Điều 169 Bộ luật Hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình sự cũng quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Do đó người từ đủ 16 tuổi là chủ thể đối với tội phạm tại các Khoản của Điều 169 Bộ luật Hình sự.

Chủ thể của tội phạm có thể là cá nhân hoặc có đồng phạm cùng thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện có tổ chức, tức là có mối liên kết và phân công nhiệm vụ chặt chẽ giữa các thành viên thì có thể bị coi là tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 2 Điều 169 Bộ luật Hình sự.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Tức là người phạm tội biết rõ hành vi bắt cóc người làm con tin là trái pháp luật và mục đích của hắn là muốn chiếm đoạt và biến tài sản của người khác thành tài sản của mình.

Động cơ phạm tội của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác. Mục đích thực hiện hành vi cướp cùng chỉ nhằm thực hiện động cơ trên. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin.

3. Hình phạt đối với người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

- Khung hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản.

- Khung hình phạt phạt tù từ 05 năm đến 12 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

a) Có tổ chức;

Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm quy định tại Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức, cũng như trong các vụ án hình sự khác có tổ chức, tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

Phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhất thiết phải là người thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt nhiều lần, nhưng không phải cứ thực hiện việc bắt cóc nhiều lần nhằm chiếm đoạt tài sản đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, mà phải xem xét việc thực hiện tội phạm của họ có thật sự là phương tiện sống hay không. Nếu phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội là lẽ sống thì không coi là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần

c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

Theo Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ khác quy định:

Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.

Phương tiện nguy hiểm là những vật mà người phạm tội sử dụng khi bắt cóc có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như: Các loại dao ( dao bầu, dao nhọn, dao rựa, dao quắm, dao phát bờ, lưới lam, móc sắt...); các loại chất độc, chất cháy ( ete, thuốc mê, thuốc ngủ, a xít, chất phóng xạ...).

Sử dụng phương tiện nguy hiểm là hành vi của người phạm tội thông qua những vật chứa đựng tính nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người. Việc đánh giá những vật có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người không phụ thuộc vào cách sử dụng những vật đó như thế nào, mà chỉ cần xác định tính năng, tác dụng của các vật mà người phạm tội sử dụng có chứa đựng khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người.

d) Đối với người dưới 16 tuổi;

Người bị hại là người dưới 16 tuổi. Tuổi của người bị hại là một tình tiết thuộc yếu tố khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội.

Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi như sau:

Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:

+ Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

+ Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

+ Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

+ Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

đ) Đối với 02 người trở lên;

Đây là trường hợp chủ thể của tội phạm thực hiện hành vi bắt cóc đối với 02 người trở lên nhằm chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: anh A bắt cóc 2 cháu B,C và gọi điện cho cha mẹ 2 cháu để tống tiền mối cháu là 100 triệu đồng.

e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Tài sản bị chiếm đoạt có thể là tiền. Trường hợp tài sản là vật, người phạm tội phải chịu tình tiết định khung tăng nặng này khi giá trị quy đổi của vật bị cướp tương đương từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Đây là trường hợp hành vi bắt cóc người khác diễn ra tại nơi công cộng, gây ảnh hưởng đến nhiều người, gây mất trật tự, an toàn xã hội.

i) Tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

- Khung hình phạt phạt tù từ 10 năm đến 18 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại trường hợp quy định giá trị tài sản phần trên, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

Căn cứ để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân cũng dựa vào kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

- Khung hình phạt phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại trường hợp quy định giá trị tài sản phần trên, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên. Đây là tài sản có giá trị đặc biệt lớn, nên người phạm tội phải chịu khung hình phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

b) Làm chết người;

Làm chết người là trước khi thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, người phạm tội không có ý thức giết người, hành vi dùng vũ lực của người phạm tội chưa gây ra cái chết cho người bị tấn công, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi bắt cóc hoặc sau khi đã bắt cóc hoặc chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên con tin bị chết.

c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

Căn cứ để xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân cũng dựa vào kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

- Khung hình phạt đối với người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

- Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

4. Vụ án thực tế xét xử về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Bản án số: 55/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 “V/v xét xử bị cáo Dương Công Tuấn A và Lương Văn H phạm tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tình Hải Dương.[1]

Khoảng tháng 02/2018 chị Đào Thị T, sinh năm 1984, ở thôn G, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương có thỏa thuận miệng vay số tiền 14.500.000 đồng của gia đình bà Đỗ Thị C, sinh năm 1948, ở cùng thôn với lãi suất 1,5%/tháng. Chị T cam kết đến tháng 5/2018 sẽ trả toàn bộ cả gốc và lãi, nhưng đến hẹn chị T không trả được nợ. Bà C cùng con trai là anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1984 nhiều lần đến đòi tiền nhưng chị T chưa trả. Trưa ngày 04/02/2019 khi anh Đ đang ở quán nhà mình thì có Dương Công Tuấn A và Lương Văn H (hiện đang làm công việc giao nước thuê cho Công  ty TNHH  MTV  K có địa chỉ tại thôn T, xã M, huyện B) đến ăn phở, anh Đ kể lại chuyện chị T nợ tiền đồng thời nhờ Tuấn A và H đi cùng đến nhà chị T đòi nợ, Tuấn A và H đồng ý. Ngay sau đó anh Đ,Tuấn A và H đến nhà chị T đòi tiền nhưng chị T chưa có tiền trả. Chị T cùng chồng là anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1982 đã tự nguyện giao xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius không đeo biển kiểm soát (do vợ chồng chị T mua trả góp nên chưa có đăng ký và BKS xe) cho anh Đ đồng thời viết giấy cam kết đến ngày 20/3/2019 sẽ trả toàn bộ số tiền vay cả gốc và lãi là 15.000.000 đồng, anh Đ đồng ý. Đến ngày 20/3/2019 như đã hẹn anh Đ, Tuấn A và H đến nhà chị T, chị Thẹn ngày hôm sau 21/3/2019 sẽ trả. Tối 21/3/2019 anh Đ, Tuấn A,  H tiếp tục đến nhưng chị T không có nhà nên anh Đ đi về còn Tuấn A, H ngồi đợi ở cổng nhà chị T đến sáng ngày 22/3/2019 vẫn không gặp được chị T. Chiều ngày 22/3/2019 Tuấn A điều khiển ô tô BKS 16H-8250 (do anh Trần Hoàng B, là Giám đốc Công ty K mượn của anh Hồ Quốc T, sinh năm 1987, ở thôn T, xã M, huyện B giao cho Tuấn A)chở H đi giao nước tại xã K, huyện B. Trên đường đi Tuấn A thấy chị T đang ngồi ở quán nước tại thôn C, xã K nên Tuấn A gọi điện báo cho anh Đ. Khi anh Đ đến yêu cầu chị T trả tiền như đã hẹn, chị T nói với anh Đ, Tuấn A và H đi cùng về nhà chị T để chị T lấy tiền trả. Chị T đưa xe mô tô nhãn hiệu SYM-Elegant  II, BKS  34B3-758.xx của mình cho Tuấn A điều khiển chở chị T ngồi phía sau, H điều khiển xe ô tô tải, anh Đ đi một mình bằng xe mô tô để về nhà chị T. Trên đường đi do sợ chị T lấy lý do để tiếp tục trốn tránh nên Tuấn A đã nảy sinh ý định đưa chị T về xưởng nước nơi mình làm việc đồng thời yêu cầu chị T gọi điện bảo người nhà mang tiền đến trả nợ thì mới cho chị T về. Chị T sử dụng điện thoại Nokia 1280 lắp sim số 0336249534 gọi đến số 0976033xxxcủa ông Phạm Văn V, sinh năm 1959 ở cùng thôn, nhờ ông Vbáo với bà Đào Thị T, sinh năm 1938 ở thôn L, xã Đ, huyện C(là mẹ đẻ chị T) mang tiền đến trả nợ cho chị T, đồng thời Tuấn A yêu cầu chị T đưa điện thoại để Tuấn A nói chuyện và thông báo cho ông V biết là Tuấn A đang giữ chị T, yêu cầu gia đình mang tiền đến trả nợ thì mới cho chị T về. Ông V đã đến nhà bà T để thông báo nội dung trên nhưng bà T không có tiền trả. Khi về đến công ty Tuấn A đưa chị T vào trong phòng nghỉ của công nhân không cho về và tiếp tục yêu cầu chị T gọi điện cho người nhà mang tiền đến trả thì mới cho về, sau đó Tuấn A khóa cửa lại, đồng thời gọi điện báo cho H biết. Tại đây chị T đã gọi điện báo cho chồng là anh Phạm Văn Đ, sinh năm 1982 biết việc mình bị Tuấn A nhốt, giữ, khi nào gia đình mang tiền đến trả nợ thì mới cho về nhưng anh Đ không đến được và không có tiền để trả hộ chị T. Khoảng 16 giờ cùng ngày,sau khi biết Tuấn A đưa chị T về giữ ở công ty, H đi thẳng về chỗ Tuấn A,sau đó bảo chị Đỗ Thùy L, sinh năm 2003, tr  tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Tuyên Quang (chị L là người yêu của H, đang làm cùng công ty với Tuấn A và H) mở cửa cho chị T ra ngoài. H nói với chị T "mày trốn đi đâu mấy ngày hôm nay mà bọn tao tìm cả ngày, cả đêm không thấy" rồi dùng chân, tay, điếu cày bằng tre đánh vào người chị T đồng thời tiếp tục yêu cầu chị T gọi điện về cho gia đình mang tiền đến trả nợ anh Đ thì mới cho chị T về. Khi anh Đ đi về đến cổng nhà chị T đợi một lúc nhưng không thấy Tuấn A chở chị T về nên đã gọi điện cho Tuấn A hỏi "em đi về đến đâu rồi",Tuấn A trả lời "bọn em đưa nó về xưởng, lát bọn em đi giao nước xong thì đưa xuống đấy", nghe thấy vậy anh Đ đi về nhà. Tuấn A không nói cho anh Đ biết việc cùng với H nhốt, đánh chị T và yêu cầu chị T gọi điện cho gia đình mang tiền đến trả. Do Tuấn A và H phải chở nước giao cho khách ở xã X, huyện B không có người trông giữ chị T, sợ chị T trốn nên Tuấn A, H đã yêu cầu chị T đi cùng xe ô tô BKS 16H-82xx do Tuấn A điều khiển, mục đích để đợi khi nào gia đình chị T mang tiền lên trả thì cho về. Khi đến quán Karaoke  Ở xã X thì Tuấn A,  H bảo chị T xuống xe và ngồi trong quán chờ để Tuấn A và H giao nước. Lợi dụng sơ hở chị T bỏ chạy được khoảng 50 mét thì Tuấn A đuổi theo giữ chị T lại, H chạy đến dùng tay tát vào mặt chị T, chị Thô hoán nên Tuấn A, H đã lên xe ô tô bỏ về Công ty. Sau khi về đến Công ty K, Tuấn A nhờ chị L điều khiển xe mô tô Elegant II của chị T (để tại công ty lúc trước) cùng Tuấn A đi một xe mô tô đến nhà anh Đ đưa cho anh Đ xe mô tô và chiếc điện thoại của chị T để trên xe ô tô của Tuấn A và bảo anh Đ mang trả cho chị T. Khoảng hơn 17 giờ cùng ngày bà Phạm Thị H, sinh năm 1957 (là mẹ chồng chị T) đến nhà anh Đ hỏi sự việc, anh Đ đã trả cho bà H điện thoại và xe mô tô của chị T,do bà H không đi được xe nên chỉ cầm chiếc điện thoại, xe mô tô bà H để lại nhờ người mang về sau. Chị T sau khi chạy thoát đã đi nhờ xe của người đi đường đến Công an xã T trình báo sự việc.

Hành vi của các bị cáo xâm phạm khách thể là sức khỏe, quyền tự do thân thể,danh dự, nhân phẩm của người khác;gây mất trật tự trị an xã hội;xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp;mục đích bắt giữ chị T để đe dọa nhằm buộc người thân của chị T giao tài sản mới cho chị T về...hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 51 Điều 169 Bộ luật Hình sự.

Trong vụ án, các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ từ trước mà trong khi hai bị cáo đi giao nước, vô tình gặp chị T tại địa bàn xã K, huyện B, sau khi Tuấn A thông tin và anh Đ đến,mọi người cùng thống nhất đi về nhà chị T để lấy tiền, trên đường đi Tuấn A tự động chở chị T về Công ty TNHH một thành viên K nhốt, đe doạ, yêu cầu chị T gọi điện cho người thân trả tiền thì mới được về...sau đó Tuấn A thông báo cho H về việc đã chở chị T về Công ty, tại đây H tham gia đánh, chửi chị T....nên các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn trong đó Tuấn A giữ vai trò chính, H là đồng phạm.

Vì lẽ đó, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương quyết định

Về tội danh: Tuyên bố  các bị cáo Dương Công Tuấn A và Lương Văn H phạm tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt:

Bị Cáo Dương Công Tuấn A 31 tháng tù tổng hợp hình phạt 17 tháng 27 ngày tù tại bản án hình sự phúc thẩm số 36/2019/HSPT ngày 29/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, buộc Dương Công Tuấn A phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 48 tháng 27 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/3/2019.

Bị cáo Lương Văn H 28 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/3/2019.

Luật Hoàng Anh

 

 

 


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta467652t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 09/07/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư