Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:04 (GMT+7)

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 172 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Công nhiên chiếm đoạt tài sản cũng là một hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác và được pháp luật hình sự quy định là một tội phạm.

1. Căn cứ pháp lý

Điều 172 Chương XVII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

1. Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

b) Hành hung để tẩu thoát;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;

đ) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại một trong các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

2.1. Khách thể của tội phạm

Công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi lợi dụng sơ hở, vướng mắc của người khác để lấy tài sản một cách công khai.

Tội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Quyền sở hữu tài sản của con người gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.

Quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Người chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu do được uỷ quyền, được giao mà không kèm theo việc chuyển quyền sở hữu thì việc thực hiện các quyền chiếm hữu chỉ được thực thi trong phạm vi giới hạn của các hành vi và theo thời gian mà chủ sở hữu cho phép.

Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Việc sử dụng tài sản là một trong những quyền quan trọng và có ý nghĩa thực tế đối với chủ sở hữu.

Quyền định đoạt là quyền năng của chủ sở hữu để quyết định về “số phận” của tài sản, có thể là trưng bày, lưu giữ, tiêu dùng hết, huỷ bỏ..., hoặc cũng có thể là bán, cho, tặng,...

Điều 105 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015 quy định về tài sản:

“Điều 105. Tài sản

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Quyền sở hữu tài sản được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 và cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015.

Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản của con người và các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sở hữu của con người.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng chiếm đoạt bằng hình thức công khai, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở của người chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh... Một số trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản sau:

- Người phạm tội lợi dụng sơ hở, vướng mắc của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản để công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ. Ví dụ: A để xe máy trên bờ và xuống suối tắm, chẳng may quên chưa rút chìa khóa (chìa vẫn cắm ở ổ khóa xe máy trên bờ), B đi ngang qua thấy xe của A nên này sinh lòng tham, lợi dụng lúc này lên xe và phóng đi mất. A dù biết bị lấy mất xe nhưng không thể làm gì được, chỉ có thể hô hoán lên nhưng B đã phóng xe đi mất rồi. 

- Người phạm tội lợi dụng hoàn cảnh khách quan như: thiên tai, hoả hoạn, bị tai nạn, đang có chiến sự để chiếm đoạt tài sản. Những hoàn cảnh cụ thể này không do người có tài sản gây ra mà do hoàn cảnh khách quan làm cho họ lâm vào tình trạng không thể bảo vệ được tài sản của mình, nhìn thấy người phạm tội lấy tài sản mà không làm gì được. Ví dụ: anh A mới được trả thù lao làm việc là 100.000.000 (một trăm triệu đồng) và đang đi trên đường về nhà thì bị tai nạn. Anh B thấy anh A bị tai nạn thì giúp đỡ đưa đi bệnh viện, vô tình anh B thấy sô tiền đó nên nảy sinh ham muốn và lợi dụng lúc anh A bị tai nạn nên lấy đi số tiền đó.

- Ngoài ra, còn loại hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, nhưng lại chiếm đoạt sau khi đã thực hiện xong hành vi phạm tội khác (thông thường là hành vi phạm tội giết người; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hiếp dâm; cưỡng dâm). Đây cũng là loại hành vi mà nhiều người lầm tưởng đó là hành vi cướp tài sản vì nó được thực hiện sau khi đã thực hiện hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực. Nếu là cướp tài sản thì việc dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực phải nhằm mục đích phục vụ cho hành vi cướp tài sản. Còn trường hợp này mục đích ban đầu của người phạm tội là thực hiện tội phạm khác (giết người, hiếp dâm,...), sau đó người phạm tội mới phát hiện tài sản của nạn nhân và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó. Như vậy, người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về cả tội đã thực hiện ban đầu và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Tính chất công khai uy không phải là hành vi khách quan, nhưng lại là một đặc điểm cơ bản, đặc trưng đối với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Đây là dấu hiệu chủ yếu để phân biệt tội công nhiên chiếm đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản, nếu chiếm đoạt tài sản một cách lén lút mà người chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết là hành vi trộm cắp. Công nhiên chiếm đoạt tài sản trước hết là công nhiên với chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, sau đó là công nhiên đối với mọi người xung quanh. Tuy nhiên, đối với người xung quanh, người phạm tội có thể có những thủ đoạn gian dối, lén lút để tiếp cận tài sản, nhưng khi chiếm đoạt người phạm tội vẫn công khai, trắng trợn. Sự công nhiên chiếm đoạt ở đây là công khai hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng không có nghĩa là người phạm tội công khai danh tính của mình. Tuy công khai chiếm đoạt tài sản nhưng người phạm tội sẽ không muốn để bị hại hoặc người khác biết mình là người chiếm đoạt tài sản đó.

Hậu quả của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là thiệt hại về tài sản mà cụ thể là giá trị tài sản bị chiếm đoạt. Mặc dù, khoản 1 của điều 172 Bộ luật Hình sự quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm, còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện nhất định. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc cấu thành tội phạm. Tội phạm hoàn thành khi hậu quả tài sản bị chiếm đoạt công khai xảy ra.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 168 (Tội cướp tài sản), 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), 171 (Tội cướp giật tài sản), 173 (Tội trộm cắp tài sản), 178 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản). Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thuộc danh sách các tội người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu. Do đó, độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi.

Chủ thể của tội phạm có thể là bất kì ai, người Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch. Tội phạm chủ yếu do cá nhân thực hiện nhưng cũng có thể phạm tội do có tổ chức, các đồng phạm câu kết chờ người bị hại sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Tức là người phạm tội biết rõ tài sản mà hắn công nhiên chiếm đoạt là tài sản của người khác và mục đích của người phạm tội là muốn chiếm đoạt và biến tài sản của người khác thành tài sản của mình.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, khác với các tội cướp, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc tội cưỡng đoạt tài sản, người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không thể có mục đích chiếm đoạt tài sản trong hoặc sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, vì hành vi chiếm đoạt tài sản đã bao hàm mục đích của người phạm tội rồi. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

3. Hình phạt đối với người phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Điều 172 Bộ luật Hình sự quy định 05 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

- Khung hình phạt phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

Theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP về việc áp dụng một số quy định các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật Hình sự, bị coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt", nếu trước đó đã bị xử lý bằng một trong các hình thức sau đây về hành vi chiếm đoạt, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện một trong các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính;

- Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệnh, Điều lệ của lực lượng vũ trang nhân dân;

- Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Các tội quy định tại nội dung này gồm:

- Điều 168 - Tội cướp tài sản

- Điều 169 - Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

- Điều 170 - Tội cưỡng đoạt tài sản

- Điều 171 - Tội cướp giật tài sản

- Điều 173 - Tội trộm cắp tài sản

- Điều 174 - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

- Điều 175 - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

- Điều 290 -  Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

Đây là trường hợp hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản diễn ra tại nơi công cộng, gây ảnh hưởng đến nhiều người, gây mất trật tự, an toàn xã hội.

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Việc công  nhiên chiếm đoạt phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc gia đình họ là hành vi gián tiếp dồn bị hại và gia đình họ vào hoàn cảnh khó khăn, không có phương tiện để kiếm sống, không thể đáp ứng đủ nhủ cầu cần thiết phụ vụ cuộc sống.

- Khung hình phạt phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

Tài sản bị chiếm đoạt công nhiên có thể là tiền. Trường hợp tài sản là vật, người phạm tội phải chịu tình tiết định khung tăng nặng này khi giá trị quy đổi của vật bị chiếm đoạt tương đương từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

b) Hành hung để tẩu thoát;

Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để tẩu thoát" là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.

Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản.

c) Tái phạm nguy hiểm;

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy công nhiên chiếm đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác.

d) Chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ;

Tài sản là hàng cứu trợ là tài sản dùng để cứu giúp rất nhiều người trong hoàn cảnh khó khăn, cần sự trợ giúp từ xã hội. Hoàn cảnh khó khăn có thể do dịch bệnh, thiên tai, hạn hán,... Việc chiếm đoạt tài sản là hàng cứu trợ gây ảnh hưởng đến nhiều người, gây nguy hại lớn cho xã hội.

đ) Công nhiên chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại một trong các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

Tuy giá trị tài sản không lớn nhưng bản thân những hành vi quy định tại các điểm a,b, c, d Khoản 1 Điều 172 đã gây nguy hại đáng kể cho xã hội. Khoản 1 quy định giá trị tài sản thuộc các điểm a, b, c, d có giá trị dưới 2.000.000 đồng, do đó, giá trị tài sản từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng là một tình tiết định khung tăng nặng hình phạt.

- Khung hình phạt phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

Quy định này giống với quy định về giá trị tài sản ở khung hình phạt trên, tuy nhiên giá trị tài sản ở khung hình phạt này cao hơn, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng cao hơn.

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Thiên tai, dịch bệnh là hoàn cảnh khó khăn, là yếu tố khách quan bên ngoài không ai mong muốn. Lúc này, mọi người đang tập trung vào công tác khắc phòng chống thiên tai mà người phạm tội lại lợi dụng thời điểm khó khăn này để công nhiên chiếm đoạt tài sản của bị hại.

- Khung hình phạt phạt tù từ 12 năm đến 20 năm đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại trường hợp quy định giá trị tài sản phần trên, chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 500.000.000 đồng trở lên. Đây là tài sản có giá trị đặc biệt lớn, nên người phạm tội phải chịu khung hình phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm.

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp là thời điểm đất nước cần toàn thể nhân dân chung tay, giải quyết vấn đề chiến tranh hay tình trạng khẩn cấp. Vậy mà người phạm tội lại lợi dụng thời điểm này để thực hiện tội phạm. Do đó, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản cao hơn những trường hợp công nhiên chiếm đoạt tài sản thông thường.

- Khung hình phạt bổ sung,  người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

4. Vụ án thực tế xét xử về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 15/01/2021 “V/v xét xử bị cáo Phạm Văn H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.[1]

Khoảng 06 giờ ngày 28/9/2020, PhạmVăn H đi bộ đến khu vực thôn ĐH, xã HD, huyện TT, Thái Bình. Thì gặp hai cháu là Nguyễn Bảo A và Nguyễn Thị Nh đang chơi. H dừng lại và đến nơi hai cháu chơi. Phát hiện trên cổ cháu Nh có đeo 01 dây chuyền bạc nên H nảy sinh ý định lấy sợi dây chuyền này để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Lợi dụng hai cháu còn nhỏ, không có khả năng bảo vệ tài sản của mình nên khi cháu Nh quay mặt ra ao, bị cáo không nói gì, tiếp tục tháo và cầm dây chuyền ở tay phải rồi nhặt viên đá ở cạnh gốc dừa gần bờ ao ném xuống ao và bảo “cá kìa” để hai cháu nhìn theo, sau đó H bỏ đi. Sau khi H bỏ đi được khoảng 2m thì cháu Nh và cháu Bảo A khóc vì bị lấy sợi dây chuyền, thấy vậy bà Th chạy từ trong nhà ra hỏi thì Bảo A nói “chú kia lấy dây chuyển của em”, nhìn lên cổ Nh không còn dây chuyền nữa, bà Th hô và đuổi theo H thì H chạy vứt dây chuyền ở tại cổng nhà bà Nguyễn Thị M. Ngay sau đó H bị Công an xã HD mời về trụ sở Ủy bạn Nhân dân xã làm việc. Tại đây H đã khai toàn bộ hành vi phạm tội.

Bản kết luận định giá tài sản số 31/BB-ĐG ngày 02/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân huyện TT kết luận: “01 dây chuyền bằng bạc có trọng lượng 22,5gram, chiều dài 39cm, đường kính 0,7cm đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm định giá là 305.000 đồng”

Bị cáo đã có hành vi lợidụng tình trạng cháu Nh còn nhỏ không  tự bảo vệ được tài sản của của mình đã công nhiêm chiếm đoạt 01 dây chuyền bạc trị giá 305.000. Bị cáo có 01 tiền án về tội chiếm đoạt theo bản án số 34/2018/HSST ngày 10/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp vi phạm, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.

Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án nên có sơ sở kết luận bị cáo phạm vào tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 172 Bộ luật Hình sự.

Vì lẽ đó, Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản.”, xử phạt bị cáo Phạm Văn H 01 (một) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/9/2020.

Luật Hoàng Anh

 

 

 

 


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta691681t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 15/07/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư