Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là gì?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:41:58 (GMT+7)

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 146 BLHS

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Dâm ô là gì? Tại sao hành vi dâm ô chỉ đối với người dưới 16 tuổi? Người phạm tội dâm ô sẽ phải chịu hình phạt gì? Trong bài viết dưới đây, Luật Hoàng Anh sẽ làm rõ nội dung này.

1. Căn cứ pháp lý

Điều 146 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự) quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:

Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Dấu hiệu pháp lý của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

2.1. Khách thể của tội phạm

Dâm ô là hành vi dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc, thể hiện sự ham muốn thú dục quá độ, không chính đáng của người thành niên đối với trẻ em chưa đủ 16 tuổi.

Tội phạm xâm phạm về tình dục, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của trẻ em.

Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bất khả xâm phạm về tình dục, thân thể, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi và trật tự trị an của xã hội.

2.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Theo Khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dực người dưới 18 tuổi quy định:

Dâm ô là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi...) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

c) Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát...) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

d) Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm...) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;

đ) Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy... của người dưới 16 tuổi).

Nạn nhân của tội phạm này là trẻ em - người dưới 16 tuổi.

Điều 417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi như sau:

Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:

a) Giấy chứng sinh;

b) Giấy khai sinh;

c) Chứng minh nhân dân;

d) Thẻ căn cước công dân;

đ) Sổ hộ khẩu;

e) Hộ chiếu.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm sinh của họ được xác định:

a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.

b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.

c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh.

d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện hành vi dâm ô.

2.3. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 18 tuổi trở lên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Thứ nhất, chủ thể của tội phạm có thể là bất kì ai, là nam hoặc nữ, công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dực người dưới 18 tuổi quy định loại trừ xử lý hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người trực tiếp chăm sóc, giáo dục người dưới 10 tuổi, người bệnh, người tàn tật, có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của họ nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: cha, mẹ tắm rửa, vệ sinh cho con dưới 10 tuổi; giáo viên mầm non tắm rửa, vệ sinh cho trẻ mầm non...);

b) Người làm công việc khám, chữa bệnh, chăm sóc y tế; người cấp cứu, sơ cứu người bị nạn có hành vi tiếp xúc với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi nhưng không có tính chất tình dục (ví dụ: bác sĩ khám, chữa bệnh cho bệnh nhân; sơ cứu, cấp cứu người bị tai nạn, người bị đuối nước...).

Thứ hai, chủ thể là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Điều kiện độ tuổi là điều kiện riêng biệt được quy định trong Điều 146 Bộ luật Hình sự chứ không tuân theo quy định về tuổi chịu trách nhiệm chung tại Điều 12 Bộ luật Hình sự.

Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có cả năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực hình sự thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận biết rõ đối tượng là trẻ em dưới 16 tuổi và hành vi phạm tội không nhằm mục đích giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác đối với người dưới 16 tuổi. Dấu hiệu mục đích này là dấu hiệu để phân biệt tội dâm ô với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên người phạm tội nhân thức được hành vi của mình không nhằm mục đích giao cấu nhưng nhằm mục đích thỏa mãn thú tính, thỏa mãn dục vọng của người phạm tội, biết được hành vi của mình có thể gây hậu quả xâm hại đến đứa trể nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.

3. Các tình tiết định khung hình phạt cụ thể

a) Có tổ chức.

Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có tổ chức cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức bao gồm nhiều người cùng tham gia, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, có thể tất cả những người tham gia đều là người thực hành (đều có hành vi dâm ô với người bị hại) nhưng cũng có trường hợp có người không dâm ô với người bị hại nhưng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

b) Phạm tội 02 lần trở lên.

Theo Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dực người dưới 18 tuổi quy định:

Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

c) Đối với 02 người trở lên.

Đây là trường hợp người phạm tội cùng thực hiện hành vi Dâm ô đối đối với 02 người trở lên dưới 16 tuổi.

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

Người phạm tội và người bị hại trong trường hợp này phải có mối quan hệ, trong đó người phạm tội có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc đối với bệnh nhân,...

đ) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên.

Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Đây là trường hợp người phạm tội ngoại trừ thực hiện hành vi dâm ô nạn nhân mà còn xâm hại đến sức khỏe của nạn nhân, gây thương tích ở mức đáng kể cho nạn nhân.

g) Tái phạm nguy hiểm.

Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.

Như vậy Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi trong trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường hợp trước đây họ đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà đã Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi hoặc trước đây họ đã bị kết án về tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, chưa được xóa án tích mà nay lại tiếp tục dâm ô đối với người dưới 16 tuổi khác.

m) Làm nạn nhân tự sát.

Nạn nhân tự sát là trường hợp bởi vì bị dâm ô, nạn nhân dưới 16 tuổi xấu hổ, tủi nhục, không còn mong muốn sống tiếp nên đã tự sát.

4. Hình phạt đối với người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Điều 146 Bộ luật hình sự quy định 04 khung hình phạt về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi như sau:

- Khung hình phạt phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm trong trường hợp người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác.

- Khung hình phạt phạt tù từ 03 năm đến 07 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội có tổ chức; phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% tái phạm nguy hiểm.

- Khung hình phạt phạt tù từ 07 năm đến 12 năm khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; làm nạn nhân tự sát.

- Khung hình phạt bổ sung, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

5. Vụ án xét xử về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Bản án số 69/2020/HSST ngày 30/9/2020 “V/v xét xử bị cáo Đào văn T về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” của Tòa án Nhân dân huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang.[1]

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17/5/2020, Đào Văn T, sinh năm 1987 ở thôn Ch, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang đến nhà anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1987 ở cùng thôn chơi (T và anh H là bạn chơi thân với nhau). Khi T đến nhà anh H, anh H có mời T ở lại ăn cơm, T đồng ý, sau đó anh H gọi thêm bạn là Hoàng Hữu A, sinh năm 1988 ở cùng thôn là bạn của T và anh H đến ăn cơm cùng. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì T, anh A ăn cơm uống rượu cùng với anh H, bà Lương Thị Kh, sinh năm 1965 là mẹ anh H và cháu Nguyễn Thị H2, sinh ngày 01/9/2009 con gái của anh H. Sau khi ăn cơm xong thì anh H, anh An và T nằm ngủ ở dưới nền nhà, đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày thì T điều khiển xe mô tô về nhà một lúc rồi quay lại nhà anh H ngồi chơi với anh H và anh A, một lúc sau thì anh A ra về, còn bà Kh đi làm. Khoảng 15 giờ cùng ngày, T đưa tiền cho anh H bảo anh H đi mua bia về T và anh H cùng uống, anh H lấy xe mô tô của T đi mua bia, chỉ còn T và cháu Nguyễn Thị H2 con gái của anh H ở nhà. T ngồi ở ghế uống nước, còn cháu H2 đang nằm chơi điện thoại ở giường bên tay phải hướng từ cửa vào, lúc này T nảy sinh ý định dâm ô đối với cháu H2 để thỏa mãn dục vọng bản thân. T đi sang bên giường chỗ cháu H2 ngồi hỏi “Cháu đang làm gì mà cười to thế” không thấy cháu H2 nói gì, T quỳ hai gối trên giường cách cháu H2 khoảng 40 đến 50cm, T dùng tay trái giữ lấy tay phải cháu H2 đang cầm điện thoại, tay phải véo vào má cháu H2 thì cháu H2 nhăn mặt, sau đó T dùng tay trái sờ đùi trái của cháu H2, rồi tiếp tục dùng tay trái đẩy cháu H2 nằm xuống giường, tay phải sờ và bóp ngực bên phải của cháu H2, cháu H2 gạt tay T ra. T tiếp tục dùng hai tay ôm vào hai bả vai của cháu H2 đẩy cháu H2 nằm im xuống giường, cháu H2 gượng dậy nhưng không được, cháu H2 đạp hai chân vào T, T cúi người xuống và hôn vào môi cháu H2, T đưa lưỡi của T vào miệng cháu H2, cháu H2 cắn lưỡi T, T không hôn nữa và bỏ cháu H2 ra, cháu H2 kêu gọi “Bố ơi, bố ơi” T bỏ chạy ra sân đi về nhà. Khi T ra đến cổng nhà anh H thì T gặp anh H đi mua bia về, anh H dừng xe lại, T lấy xe mô tô và đi về nhà. Sau khi sự việc xảy ra, cháu H2 có kể lại toàn bộ việc T có hành dâm ô đối với cháu H2 cho anh H và bà Kh biết.

Sau đó ngày 20/5/2020 T đã đến gia đình anh H xin lỗi cháu H2, anh H và bà Kh. Ngày 04/6/2020, chị Dương Thị H1, sinh năm 1987 ở thôn Ph, xã Nh, huyện T, tỉnh Bắc Giang (nay là tổ dân phố Ph, thị trấn Nh, huyện T) là mẹ đẻ của cháu H2 đã làm đơn trình báo Cơ quan điều tra Công an huyện T. Ngày 05/6/2020, Đào Văn T đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

Sau khi xem xét các tình tiết, Hội đồng xét xử nhận định rằng:

Về tội danh: khoảng 15 giờ ngày 17/5/2020, tại giường ngủ của gia đình anh Nguyễn Văn H, Bị cáo Đào Văn T, sinh năm 1987 ở thôn Ch,  xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang đã có  hành  vi dâm ô không nhằm mục đích giao cấu đối với cháu Nguyễn Thị H2,  sinh  ngày 01/9/2009 là con gái của anh H. Bị cáo thực hiện hành vi trên đối với người bị hại dưới 13 tuổi. Khi thực hiện hành vi bị cáo đã đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát  nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới nhân phẩm, danh dự của người bị hại, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thuần phong mỹ tục của nhà nước. Đồng thời, gây hoang mang trong dư luận, sau khi phạm tội, bị cáo cũng như gia đình bị cáo không bồi thường cho người bị hại gây bức xúc cho gia đình bị hại. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo.

Vì lẽ đó, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang tuyên bố bị cáo Đào Văn T phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”, xử phạt bị cáo Đào Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 05/6/2020.

Luật Hoàng Anh


[1] https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta710167t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 17/06/2021.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư