Tội giả mạo trong công tác là gì?

Thứ năm, 17/08/2023, 14:05:56 (GMT+7)

Quy định về tội giả mạo trong công tác tại Điều 359 BLHS. Dưới đây, Luật Hoàng Anh sẽ trình bày nội dung này.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Tội giả mạo trong công tác là một trong những tội danh được quy định trong bộ luật hình sự áp dụng thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ. Vậy tội giả mạo trong công tác là gì? Dấu hiệu pháp lý và hình phạt áp dụng đối với tội giả mạo trong công tác được quy định như thế nào? Hãy tham khảo nội dung bài viết dưới đây hoặc GỌI NGAY tới số điện thoại 0908308123  để được LUẬT SƯ tư vấn pháp luật hình sự MIỄN PHÍ.

1. Căn cứ pháp lý

- Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015;

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).

2. Tội giả mạo trong công tác là gì?

Tội giả mạo trong công tác được quy định tại Điều 359 Chương XXIII như sau:

“Điều 359. Tội giả mạo trong công tác

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;

b) Làm, cấp giấy tờ giả;

c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu;

c) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 06 giấy tờ giả.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 05 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả;

b) Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng 11 giấy tờ giả trở lên;

b) Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”

Như vậy, theo quy định nêu trên có thể hiểu giả mạo trong công tác là hành vi của một người vì vu lợi hoặc động cơ cá nhân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch nội dung các giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn hoặc làm, cấp các giấy tờ giả.

3. Dấu hiệu pháp lý của tội giả mạo trong công tác

3.1. Khách thể của tội phạm

Giả mạo trong công tác là hành vi của một người vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, lợi dụng chức vụ, quyền hạn sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả; giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

Khách thể của tội giả mạo trong công tác là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín. Vì vậy, giả mạo trong công tác là tội phạm tham nhũng là đối tượng bị xử lý nghiêm.

Đối tượng tác động của tội giả mạo trong công tác là giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội đã tác động vào làm cho các tài liệu, giấy tờ, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn bị sai lệch, không đúng với thực tế.

3.2. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:

a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;

b) Làm, cấp giấy tờ giả;

c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện việc giả mạo trong công tác; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện việc giả mạo.

Đối với tội giả mạo trong công tác, thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn còn là tiền đề để người phạm tội thực hiện một trong những hành vi khách quan.

Sửa chữa, làm sai nội dung giấy tờ là hành vi tẩy xoá, viết thêm, bỏ bớt hoặc bằng thủ đoạn khác làm cho nội dung giấy tờ đó không còn đúng với nội dung vốn có của nó. Sửa chữa, theo hướng tích cực thì sửa sai thành đúng, nhưng hành vi sửa chữa ở đây được hiểu là sửa đúng thành sai với động cơ xấu. hậu quả của việc sửa chữa là làm sai lệch nội dung giấy tờ đó, làm cho nội dung của giấy tờ đó không đúng với thực tế kách quan.

Giấy tờ là giấy có mang một nội dung nhất định và có một giá trị theo quy định như giấy phép, giấy chứng nhận, công văn... Nói chung, giấy tờ là đối tượng tác động của tội phạm này bao gồm các loại giấy mang tiêu đề nhất định và có giá trị nhất định căn cứ vào nội dung của loại giấy tờ đó, chứ không bao gồm tất cả các loại giấy tờ. Giấy tờ bị sửa chữa bao gồm nhiều loại, nhưng chủ yếu là các loại văn bản do cơ quan, tổ chức ban hành có liên quan đến quyền và lợi ích của cá nhân, tập thể, cơ quan, tổ chức mà người phạm tội quan tâm.

Sửa chữa, làm sai lệch nội dung tài liệu là hành vi thêm, bớt hoặc bằng thủ đoạn khác làm cho nội dung của tài liệu đó không đúng với nội dung vốn có của nó, sửa đúng thành sai như đối với việc sửa chữa giấy tờ.

Tài liệu và giấy tờ, xết về một khía cạnh nào đó thì cũng như nhau, trong tài liệu có giấy tờ và ngược lại trong giấy tờ cũng có tài liệu, nhưng khi nói đến tài liệu là muốn nói đến nội dung của một loại giấy tờ như: một văn bản giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề gì, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, thu thập tài liệu để viết luận văn tốt nghiệp... Tài liệu có thể tồn tại dưới dạng giấy tờ, nhưng cũng có thể tồn tại dưới các dạng khác như: trên mạng internet, băng ghi hình, băng ghi âm, có khi chỉ là một danh lam thắng cảnh, một khu di tích lich sử, một tấm bia. v.v... nhưng chỉ những tài liệu có liên quan đến hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội bị sửa chữa mới là đối tượng tác động của tội phạm này.

Làm giấy tờ giả là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm ra một trong các giấy tờ mang tiêu đề nhất định và có giá trị nhất định, nhưng nội dung không đúng với thực tế khách quan. Giấy tờ giả là giấy tờ không có thật, tức là cơ quan Nhà nước không ban hành loại giấy tờ đó hoặc có ban hành nhưng nội dung không đúng với giấy tờ mà người phạm tội làm. Điều luật chỉ quy định làm giấy tờ giả, mà không quy định làm tài liệu giả, nên trong trường hợp người phạm tội có hành vi làm tài liệu giả thì cần phải xác định tài liệu đó có tồn tại ở dạng giấy tờ không, nếu không tồn tại ở dạng giấy tờ thì không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.

Cấp giấy tờ giả là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để cấp giấy tờ cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân mà người phạm tội biết chắc đó là giấy tờ giả. Hành vi cấp giấy tờ giả cho người khác, có thể cũng là hành vi làm giấy tờ giả rồi cấp giấy đó cho người mà mình quan tâm, nhưng cũng có thể người phạm tội chỉ thực hiện việc cấp giấy tờ giả đó, còn việc làm ra nó lại do một người khác thực hiện. Thông thường, người làm ra giấy tờ giả cũng là người cấp giấy tờ giả đó. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người làm và người cấp khác nhau.

Hành vi giả mạo chữ  ký của người giả mạo trong công tác có đặc điểm khác với hành vi giả mạo chữ ký quy định trong một số tội phạm khác ở chỗ: Người phạm tội giả mạo trong công tác lại chính là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gải mạo chữ ký của người khác mà người này cũng là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn phải giả mạo chữ ký của người khác là vì chữ ký của người phạm tội không có giá trị hoặc không phù hợp với hình thức và nội dung giấy tờ, tài liệu.

Cũng như hậu quả của các tội phạm khác, hậu quả của tội giả mạo trong công tác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội. Tuy nhiên hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.

3.3. Chủ thể của tội phạm

Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội giả mạo trong công tác cũng là các dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm này với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.

Trước hết, người phạm tội giả mạo trong công tác phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội giả mạo trong công tác cũng tương đối rộng. Tuy nhiên, người phạm tội giả mạo trong công tác là người đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; để làm hoặc cấp giấy tờ giả; để giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn khác.

Nếu người có chức vụ, quyền hạn lại lợi dụng chức vụ, quyền hạn tiếp tay cho người khác để sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; để làm hoặc cấp giấy tờ giả; để giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người lợi dụng chức vụ, quyền hạn bị tổ chức trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội tham ô.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội giả mạo trong công tác là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

3.4. Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội giả mạo trong công tác thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

Đối với tội phạm giả mạo trong công tác, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, nếu người phạm tội có các hành vi khách quan nêu ở trên nhưng không vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác thì hành vi giả mạo trong công tác chưa cấu thành tội phạm.

4. Hình phạt đối với người phạm tội giả mạo trong công tác

Điều 359 Bộ luật Hình sự quy định 05 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Thứ nhất: Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

- Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;

- Làm, cấp giấy tờ giả;

- Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.

Thứ hai: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

- Có tổ chức;

- Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu;

- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 06 giấy tờ giả.

Thứ ba: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 05 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả;

- Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

Thứ tư: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng 11 giấy tờ giả trở lên;

- Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ năm: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

5. Vụ án thực tế về tội giả mạo trong công tác

Bản án số 31/2021/HS-PT ngày 30/03/2021 “V/v xét xử bị cáo Nguyễn Văn T, Bùi Nguyễn H4, Trần Văn H1 phạm tội Giả mạo trong công tác” của Tòa án nhân dân Tỉnh Thái Nguyên.

Căn cứ vào lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý, cấp bằng tốt nghiệp tại trường Cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp và việc một số đối tượng trên địa bàn các tỉnh khác nhau có nhu cầu cần bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề mà không phải qua đào tạo. Trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2018 đến tháng 1 năm 2019, tại Trường Cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp (Thuộc Bộ Công thương), có trụ sở tại: Xã TT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên, với sự giúp sức của Nguyễn Văn T, Trần Văn H1, Bùi Nguyễn H4 và Đỗ Đức T2; Nguyễn Bá V (Là Trưởng phòng đào tạo) và Hoàng Đại P2 (Là Phó trưởng phòng đào tạo) đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, làm trái công vụ, lập khống 10 hồ sơ học tập, bài thi tốt nghiệp rồi lưu giữ tại phòng đào tạo mà không đăng ký học tập theo quy định, đợi đến khi Hội đồng xét công nhận tốt nghiệp -Trường cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp xét công nhận tốt nghiệp cho các sinh viên kết thúc khóa học, ban hành quyết định công nhận tốt nghiệp, kèm theo danh sách công nhận tốt nghiệpcho các sinh viên tham gia đào tạo thực tế, thì Nguyễn Bá V nhờ vả được Tạ Thị Thu H (là Thư ký giáo vụ, trực tiếp phụ trách lớp và quản lý điểm của hai lớp liên thông (K7ALT.KTĐ, K7ALT.KT) sửa và chèn tên, thông tin cá nhân của 10 công dân không tham gia khóa học vào Danh sách xét công nhận tốt nghiệp, lập khống 10 bảng điểm toàn khóa, để Nguyễn Bá V thay thế trang 1 danh sách công nhận tốt nghiệp, rồi đến Phòng Văn thư đóng dấu, chuyển cho bộ phận in bằng tốt nghiệp, trình Hiệu trưởng ký, cấp bằng theo quy trình. Với thủ đoạn nêu trên, Nguyễn Bá V và các đồng phạm khác đã thực hiện trót lọt việc lập khống hồ sơ và cấp khống 10 bằng tốt nghiệp cao đẳng của Trường Cao đẳng công nghệ và kinh tế công nghiệp cho 10 công dân gồm: Trần Thanh H3, Dương Thanh T3, Nguyễn Thanh T4, Phạm Hữu P3, Vũ Công M, Lê Văn T1, Nguyễn Văn T5, Nguyễn Hữu Đ1, Lê Anh D, Chu Văn H5, thu lời bất chính số tiền là 198.000.000đ (Một trăm chín mươi tám triệu đồng), trong đó:

- Nguyễn Văn T trực tiếp nhận 02 hồ sơ của Vũ Công M và Lê Văn T1 thu số tiền là 49.000.000 đ (của M 34.000.000đ, của T1 là 15.000.000đ) và nhận 04 hồ sơ cùng số tiền 64.000.000đ do Trần Văn H1chuyển đến (gồm các hồ sơ của các công dân: Nguyễn Hữu Đ1, Nguyễn Văn T5, Lê Anh Dvà Chu Văn H5), sau đó chuyển lại cho Hoàng Đại P2 06 hồ sơ cùng số tiền 96.000.000đ.

Hoàng Đại P2 cùng với Nguyễn Bá V lập khống hồ sơ để cấp khống bằng tốt nghiệp cho các công dân nêu trên. Nguyễn Văn T đã hưởng lợi và thu lời bất chính tổng số tiền là 17.000.000đồng.

- Trần Văn H1 trực tiếp nhận 01 hồ sơ của Chu Văn H5 cùng số tiền là 16.000.000đ và 03 hồ sơ của Nguyễn Hữu Đ1, Nguyễn Văn T5, Lê Anh D cùng số tiền 57.000.000đ thông qua Nguyễn Thị L (của  Đ1: 19.000.000đ, của T5: 19.000.000đ,  của D:  19.000.000đ)  sau  đó  chuyển  lại  04  hồ  sơ  và  số  tiền 64.000.000đ cho Nguyễn Văn T.

Trong việc này Trần Văn H1 đã hưởng lợi và thu lời bất chính tổng số tiền là 9.000.000đồng.

- Bùi Nguyễn H4 trực tiếp nhận 01 hồ sơ của Nguyễn Thanh T4 cùng số tiền là 32.000.000đ, sau đó chuyển lại hồ sơ và số tiền 25.000.000đ cho Nguyễn Bá V.  Bùi  Nguyễn H4 đã hưởng lợi và thu lời bất  chính  tổng  số  tiền  là 7.000.000đồng. Hành vi của các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nghề nghiệp, làm mất uy tín của nhà trường trong công tác tuyển sinh đào tạo nói riêng và hệ thống giáo dục đào tạo sau phổ thông nói chung.Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Với hành vi trên, các bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Giả mạo trong công tác” theo quy định tại Điều 359 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Sau đó, các bị cáo làm đơn kháng cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định:

- Tuyên bố:các bị cáoNguyễn Văn T, Bùi Nguyễn H4, Trần Văn H1phạm tội “Giả mạo trong công tác”.

- Về hình phạt:

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 04 (bốn) năm tù,thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành bản án,được  trừ  đi  thời  gian  bị  tạm  giữ  từ  ngày  23/12/2019  đến  ngày 31/12/2019.

2. Xử phạt bị cáo Trần Văn H1: 30(ba mươi) tháng tùcho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 (sáu mươi) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

3. Xử phạt bị cáo Bùi Nguyễn H4: 18(mười tám) tháng tùcho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư