Trong những trường hợp nào BLTTHS 2015 quy định cần phải chỉ định người bào chữa?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:07 (GMT+7)

Bài viết trình bày về nội dung chỉ định người bào chữa trong quá trình hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự là quy định mang tính chất nhân đạo của Nhà nước ta. Theo đó, người bào chữa là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thứ pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt thân chủ tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Và việc chỉ định người bào chữa sẽ áp dụng trong một số trường hợp theo quy định pháp luật.

1. Cơ sở pháp lý

Căn cứ Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) về chỉ định người bào chữa được quy định như sau:

“Điều 76. Chỉ định người bào chữa

“1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:

a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;

b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:

a) Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;

b) Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;

c) Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.”

2. Quy định của BLTTHS 2015 về chỉ định người bào chữa

Điều luật được tách ra từ khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 quy định về các trường hợp chỉ định người bào chữa.

Chỉ định người bào chữa là trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa và người bị buộc tội thuộc một trong các trường hợp sau:

- Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình: Mức 20 năm tù, tù chung thân, tử hình là mức luật định, chứ không phải là mức hình phạt mà Tòa án khi xét xử bị cáo về tội đó phải áp dụng đối với bị cáo; đó là mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị can, bị cáo. Ví dụ: Bị can bị khởi tố về tội giết người theo quy định theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS (là trường hợp có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình) thì nếu bị can, người đại diện hoặc người thân thích của bị can không mời người bào chữa thì CQTHTT có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa cho bị can vì mức khung cao nhất của khung hình phat theo quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS là “tử hình”.

- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi. Đây là các đối tượng  không thể tự mình bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân họ nên xuất phát từ tính nhân đạo XHCN và để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nếu người đại diện hoặc người thân thích của những đối tượng này không yêu cầu người bào chữa thì CQTHTT có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa cho họ.

Chỉ định người bào chữa là trách nhiệm của CQTHTT, tuy nhiên người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội vẫn có quyền chấp nhận, thay đổi hoặc từ chối người bào chữa theo chỉ định của CQTHTT có thẩm quyền.

Để thực hiện trách nhiệm chỉ định người bào chữa theo quy định của pháp luật, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa:

- Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa. Đoàn Luật sư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp nhận yêu cầu cử người bào chữa của CQTHTT thì phải phân công tổ chức hành nghề Luật sư cử người bào chữa. CQTHTT hoặc Đoàn Luật sư không được chỉ định trực tiếp cá nhân Luật sư làm người bào chữa, trừ trường hợp Luật sư hành nghề cá nhân thì Đoàn Luật sư được phân công trực tiếp.

- Tương tự, khi tiếp nhận yêu cầu cử người bào chữa của CQTHTT, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý.

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

Và trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện thủ tục chỉ định người bào chữa được hướng dẫn tại Điều 5 Thông tư 46/2019/TT-BCA:

“Đối với người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hoặc người đại diện hoặc người thân thích của người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa có đơn yêu cầu người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Nhà tạm giữ, Trại tạm giam thực hiện các quy định tại Điều 3, Điều 4 Thông tư này. Nếu người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa không có đơn yêu cầu người bào chữa thì thực hiện như sau:

1. Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền mà người đại diện hoặc người thân thích của những người thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm thực hiện các thủ tục chỉ định người bào chữa được quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2. Khi nhận được văn bản cử người được quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong thời hạn không quá 24 giờ, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra có trách nhiệm gặp bị can thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện hoặc người thân thích của những người quy định tại điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để họ có ý kiến về việc chỉ định người bào chữa; việc gặp phải được lập biên bản và ghi rõ ý kiến của bị can, người đại diện hoặc người thân thích về việc có đồng ý hoặc thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Trường hợp đồng ý chỉ định người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án làm căn cứ để tiến hành thủ tục đăng ký bào chữa.

3. Trường hợp thay đổi người bào chữa, nếu bị can, người đại diện hoặc người thân thích nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm yêu cầu hoặc đề nghị cơ quan của người bào chữa đó để phân công; nếu không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm gửi đến một trong các cơ quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để cử lại người.

4. Trường hợp từ chối người bào chữa thì cơ quan đang thụ lý vụ án có trách nhiệm thông báo cho cơ quan đã cử người, người được cử chỉ định. Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất với người được cử chỉ định về thời gian gặp bị can thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người đại diện hoặc người thân thích của những người quy định tại điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xác nhận việc từ chối.”

So sánh với khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003, Điều 76 BLTTHS 2015 có những điểm mới sau:

- Mở rộng đối tượng người bị buộc tội được chỉ định bào chữa: Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003, chỉ bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình mới được chỉ định người bào chữa thì Điều 76 BLTTHS đã hạ mức cao nhất của khung hình phạt xuống 20 năm tù, tù chung thân, tử hình. Theo đó bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình thì đã đã được chỉ định người bào chữa.

- Quy định cụ thể đối tượng người bị buộc tội yếu thế được chỉ định người bào chữa là người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, có nhược điểm về thâm thần; hoặc người dưới 18 tuổi chứ không quy định chung chung như điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS 2003 là: “bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất”. Theo đó, người có nhược điểm về thể chất mà có thể tự bào chữa thì không thuộc diện được chỉ định người bào chữa. Như vậy, diện người bị buộc tội yếu thế được chỉ định người bào chữa bị thu hẹp lại. Điều luật quy định bổ sung khoản 2 quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc cử người bào chữa theo yêu cầu hoặc đề nghị của CQTHTT có thẩm quyền.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư