Điểm mới về hình thức hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động năm 2019 như thế nào?

Thứ hai, 19/06/2023, 12:35:29 (GMT+7)

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Bộ luật Lao động năm 2019 được QH khóa 14 thông qua ngày 20/11/2019, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021, gồm 17 Chương, 220 Điều đã quy định nhiều điểm mới đối với người lao động (NLĐ) cũng như người sử dụng lao động. Một trong những điểm mới cơ bản của Bộ luật lao động 2019 chính là quy định đối với hình thức hợp đồng lao động.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);

- Bộ luật dân sự năm 2015.

Hợp đồng lao động là gì?

Hợp đồng theo Từ điển tiếng Việt được hiểu "là sự thoả thuận giao ước giữa hai hay nhiều bến quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được kết thành văn bản". Bộ luật Dân sự năm 2015 tại Điều 355 có quy định. “Hợp đồng dân sự là sự thoá thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, về bản chất, hợp đồng phải là sự thoả thuận, giao ước giữa các bên và nội dung của nó phải là những quy định về các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia (về tung lĩnh vực cụ thể). Hợp đồng lao động cũng là một loại hợp đồng (trước đây hợp đồng lao động được xem là hợp đồng dân sự, sau này mới tách ra thành loại hợp đồng lao động nêng), vì vậy nó cũng phải mang bản chất của hợp đồng nói chung đó là tỉnh khế ước, được hình thành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Song khác với hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại, sự thoả thuận này phải là sự thoả thuận giữa các chủ thể của quan hệ lao động (người lao động và người sử dụng lao động) và nội dung của nó phải liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động như vấn đề về việc làm, tiền lương, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội. ...

Theo Khoản 1 Điều 13 Bộ luật lao động 2019:

Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.

Như vậy, có thể thấy hợp đồng lao động thực chất là sự thỏa thuận giữa hai chủ thể, một bên là người lao động có nhu cầu về việc làm, bên còn lại là người sử dụng lao động có nhu cầu thuê mướn người lao động để mua sức lao động. Trong đó người lao động cam kết tự nguyện làm một cồn việc cho người sử dụng lao động và đặt mình dưới sự quản lí của người sử dụng lao động và được người sử dụng lao động trả lương.

Đặc điểm của hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động cũng là một loại hợp đồng nói chung nên trước hết hợp đồng lao động có những đặc điểm chung của hợp đồng đó là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể. Ngoài ra hợp đồng lao động còn có một số đặc điểm riêng sau đây:

- Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng lao động là người lao động và người sử dụng lao động. Đây là hai chủ thể trong quan hệ lao động cá nhân. Người sử dụng lao động là cá nhân, tổ chức (doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình). Người lao động là cá nhân, người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.

- Thứ hai, đối tượng của hợp đồng lao động là việc làm. Do quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ lao động. Sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ này là về việc làm (hoạt động tạo ra thu nhập mà pháp luật không cấm) và các điều kiện liên quan đến việc làm.

- Thứ ba, hợp đồng lao động là sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận này thể hiện ý chí của cả hai chủ thể tham gia ký kết hợp đồng lao động, tức là các bên phải biết đầy đủ và hiểu rõ các thông tin liên quan đến thỏa thuận, thỏa thuận chỉ được xác lập với sự tự nguyện, bình đẳng, trung thực giữa người sử dụng lao động và người lao động.

- Thứ tư, tên hợp đồng lao động không nhất thiết phải là hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động được xác định dựa trên bản chất nội dung thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Chỉ cần nội dung của hợp đồng lao động có các nội dung liên quan đến việc làm như tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của hai bên, đặc biệt thể hiện trách nhiệm quản lý, giám sát của người sử dụng lao động đối với người lao động thì có thể coi là hợp đồng lao động dù tên gọi của hợp đồng có thể không phải là hợp đồng lao động.

- Thứ năm, thời điểm giao kết hợp đồng là trước khi người lao động làm việc (theo Khoản 2 Điều 13 Bộ luật lao động năm 2019). Việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động trước người sử dụng lao động.

Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động

Có 02 nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng lao động (theo điều 15 Bộ luật lao động năm 2019):

Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực

Tự nguyện là một điều chắc chắn phải có của một thỏa thuận, hai bên được quyền tự do thảo luận, tự do quyết định dựa trên ý chí của bản thân về các nội dung của thỏa thuận cũng như việc giao kết mà không cần sự can thiệp của ý chí người thứ ba (trừ trường hợp người lao động là người chưa thành niên và dưới 15 tuổi).

Bình đẳng khi giao kết hợp đồng là khi hai bên cùng ở vị trí ngang hàng nhau khi giao kết hợp đồng. Do người lao động có phần phụ thuộc vào người sử dụng lao động vì người sử dụng lao động là người trả lương cho người lao động. Người sử dụng lao động không được chèn ép, bắt buộc người lao động dựa trên ưu thế của mình.

Thiện chí, hợp tác là một trong những yếu tố tiên quyết để giao kết hợp đồng. Nếu một trong hai bên không có thiện chí thỏa thuận, không hợp tác để thỏa thuận thì không thể giao kết được hợp đồng.

Trung thực khi giao kết hợp đồng là khi cả hai bên trung thực với nhau về thông tin mà mình cung cấp cho đối phương, từ các thông tin cá nhân cơ bản như tên, ngày sinh cho đến những thông tin liên quan đến công việc như trình độ, điều kiện làm việc,…

Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội

Việc giao kết hợp đồng được thực hiện tự do dựa trên ý chí của người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên vẫn phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Hợp đồng lao động không được trái pháp luật (ví dụ như không được sử dụng người lao động làm công việc trái pháp luật), nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Đồng thời hợp đồng lao động cũng phải tuân theo các thỏa ước lao động đã ký kết giữa tổ chức đại diện người lao động và người sử dụng lao động, và có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với người sử dụng lao động và tất cả người lao động của người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc giao kết hợp đồng lao động không được trái với đạo đức xã hội, gây ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục.

Hình thức giao kết hợp đồng lao động

Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019 quy định về hình thức hợp đồng, như sau:

1. Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.

2. Hai bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1 Điều 145 và khoản 1 Điều 162 của Bộ luật này.

Về cơ bản, khi xây dựng Bộ luật lao động năm 2019, quy định đối với hình thức hợp đồng lao động vẫn giữ nguyên tinh thần về hình thức hợp đồng lao động đã được quy định tại Bộ luật lao động năm 2012, đó là hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản, được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ một số trường hợp đặc biệt khác do pháp luật về lao động, pháp luật khác có liên quan quy định. Hình thức văn bản của hợp đồng lao động được nhận định là hình thức pháp lí chặt chẽ nhất, chứng minh sự ràng buộc cao nhất về quyền và nghĩa vụ của bên người lao động, người sử dụng lao động trong hợp đồng lao động so với các hình thức khác (bằng hành vi, lời nói..), giảm thiểu các mâu thuẫn, tranh chấp có thể xảy ra. Do vậy, xét về mặt cơ sở lý luận hay dưới góc độ thực tiễn áp dụng, việc quy định đối với hình thức hợp đồng lao động như trên là hoàn toàn phù hợp.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều đổi mới, cùng với sự phát triển trong lĩnh vực công nghệ, sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các nền tảng số,..., nhà làm luật đã có sự ghi nhận mới đối với hình thức hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động năm 2019. Từ quy định về hình thức lao động đã được đề cập, có thể đưa ra các kết luận về đổi mới hình thức lao động như sau:

  • So với Bộ luật lao động năm 2012, Bộ luật lao động năm 2019 đã quy định thêm: “Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản”. Cùng với sự phát triển của nền tảng khoa học công nghệ, Bộ luật lao động năm 2019 đã ghi nhận phương thức giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử, loại hợp đồng được ký kết dưới phương thức mới này có giá trị pháp lý tương đương hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản.

Luật Giao dịch điện tử đưa ra định nghĩa một số thuật ngữ liên quan đến giao kết hợp đồng thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu. Khoản 10 Điều 3 Luật Giao dịch điện tử năm 2005:  “Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự”. Khoản 12 điều 3 Luật Giao dịch điện tử năm 2005: "Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử."

Nhìn chung, theo Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì việc giao kết hợp đồng lao động hoàn toàn có thể thực hiện giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Trong khi đó, Bộ luật lao động năm 2012 không có quy định về hình thức hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu. Quy định bổ sung hình thức hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử này của Bộ luật lao động năm 2019 cho thấy sự hoàn thiện phù hợp với thực tiễn phát triển của Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời thể hiện sự thống nhất của pháp luật lao động so với văn bản pháp luật liên quan khác điều chỉnh quan hệ hợp đồng lao động như Luật Giao dịch điện tử năm 2005....

  • Bộ luật lao động năm 2019 đã thay đổi về hình thức hợp đồng lao động giao kết bằng lời nói: 'Hai bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1 Điều 145 và khoản 1 Điều 162 của Bộ luật này.

Nếu như trước đây, theo Bộ luật lao động năm 2012 có quy định các công việc mang tính chất thời vụ có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết bằng hợp đồng, thì hiện nay, Bộ luật lao động năm 2019 đã có quy định thay đổi rằng hai bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói khi và chỉ khi hợp đồng đó có thời hạn dưới 01 tháng. Nếu không thuộc trường hợp này thì không được phép giao kết hợp đồng bằng lời nói. Bộ luật lao động 2019 đã rút ngắn thời hạn từ 03 tháng xuống còn 01 tháng trong trường hợp giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói.

Lý giải nguyên nhân Bộ luật lao động năm 2019 lại có sự thay đổi đáng kể như trên, không thể không nói đến mục đích nhằm bảo vệ hài hòa quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động. Như đã đề cập, hợp đồng bằng văn bản có tính an toàn cao hơn so với các hình thức khác, hợp đồng lao động được giao kết bằng lời nói mang nhiều rủi ro hơn. Do vậy, hợp đồng lao động bằng lời nói thời hạn dưới 01 tháng sẽ hợp lí hơn, đảm bảo hơn so với thời hạn kéo dài tới dưới 03 tháng.

Không chỉ thế, trong quy định về hình thức hợp đồng lao động này, Bộ luật lao động năm 2019 đã đưa ra cụ thể các trường hợp không được giao kết bằng hợp đồng lao động bằng lời nói: “ Đối với công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên có thể ủy quyền cho một người lao động trong nhóm để giao kết hợp đồng lao động; trong trường hợp này, hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và có hiệu lực như giao kết với từng người lao động” (Khoản 2 điều 18). Tương tự điểm a Khoản 1 Điều 145 quy định “ Phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó;  Khoản 1 Điều 162 về Hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình: “1. Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình  Các trường hợp này Bộ luật lao động cũng liệt kê lần lượt theo thứ tự ở các điều: Khoản 2 điều 18; Điểm a khoản 2 điều 164; Khoản 1 điều 180.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: Bộ luật lao động năm 2012 cũng có quy định các trường hợp riêng phải thành lập bằng văn bản, không quan trọng về thời hạn hợp đồng là bao nhiêu. Song Bộ luật lao động năm 2019 bổ sung liệt kê các điều khoản quy định đối tượng lập hợp đồng lao động không được phép thực hiện bằng lời nói, dù hợp đồng lao động được ký thuộc các trường hợp tại  Khoản 2 Điều 18; Điểm a Khoản 1 Điều 145; Khoản 1 Điều 162 vào điều khoản giao kết hợp đồng bằng lời nói. Bộ luật lao động năm 2019 tổng hợp, nhấn mạnh các trường hợp này không được giao kết bằng lời nói, thể hiện sự thống nhất, chặt chẽ hơn trong các quy định về hình thức hợp đồng lao động. Từ đây, lưu ý đối với các chủ thể là người lao động và người sử dụng lao động phải chú trọng tới hình thức hợp đồng lao động, đặc biệt với hợp đồng lao động đối với công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng, đối với người chưa thành niên dưới 15 tuổi hoặc đối với người giúp việc gia đình.

Như vậy, sự đối mới cơ bản về hình thức lao động trong Bộ luật lao động năm 2019 có đóng góp trong việc cập nhật với thực tiễn môi trường lao động, cũng như giảm thiểu các tranh chấp xảy ra phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động, tạo môi trường pháp lý tốt hơn cho quá trình "mua bán" sức lao động.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư