Hợp đồng lao động, nguyên tắc và hình thức giao kết hợp đồng lao động được thể hiện như thế nào trong Bộ luật lao động năm 2019?

Thứ tư, 14/06/2023, 11:19:50 (GMT+7)

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Hợp đồng lao động là một khái niệm không còn xa lạ gì với những người lao động hay sử dụng lao động. Bộ luật lao động năm 2019 được ban hành có các quy định như thế nào về khái niệm hợp đồng lao động, nguyên tắc và hình thức giao kết hợp đồng lao động? Cùng theo dõi bài viết dưới đây của Luật Hoàng Anh.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019)

Hợp đồng lao động là gì?

Hợp đồng theo Từ điển tiếng Việt được hiểu "là sự thoả thuận giao ước giữa hai hay nhiều bến quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được kết thành văn bản". BLDS năm 2015 tại Điều 355 có quy định. “Hợp đồng dân sự là sự thoá thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, về bản chất, hợp đồng phải là sự thoả thuận, giao ước giữa các bên và nội dung của nó phải là những quy định về các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia (về tung lĩnh vực cụ thể). Hợp đồng lao động cũng là một loại hợp đồng (trước đây hợp đồng lao động được xem là hợp đồng dân sự, sau này mới tách ra thành loại hợp đồng lao động nêng), vì vậy nó cũng phải mang bản chất của hợp đồng nói chung đó là tỉnh khế ước, được hình thành trên cơ sở sự thoả thuận của các bên. Song khác với hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại, sự thoả thuận này phải là sự thoả thuận giữa các chủ thể của quan hệ lao động (người lao động và người sử dụng lao động) và nội dung của nó phải liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động như vấn đề về việc làm, tiền lương, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội. ...

Theo Khoản 1 Điều 13 Bộ luật lao động 2019:

Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.

Như vậy, có thể thấy hợp đồng lao động thực chất là sự thỏa thuận giữa hai chủ thể, một bên là người lao động có nhu cầu về việc làm, bên còn lại là người sử dụng lao động có nhu cầu thuê mướn người lao động để mua sức lao động. Trong đó người lao động cam kết tự nguyện làm một cồn việc cho người sử dụng lao động và đặt mình dưới sự quản lí của người sử dụng lao động và được người sử dụng lao động trả lương.

Đặc điểm của hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động cũng là một loại hợp đồng nói chung nên trước hết hợp đồng lao động có những đặc điểm chung của hợp đồng đó là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể. Ngoài ra hợp đồng lao động còn có một số đặc điểm riêng sau đây:

- Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng lao động là người lao động và người sử dụng lao động. Đây là hai chủ thể trong quan hệ lao động cá nhân. Người sử dụng lao động là cá nhân, tổ chức (doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình). Người lao động là cá nhân, người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động.

- Thứ hai, đối tượng của hợp đồng lao động là việc làm. Do quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động là quan hệ lao động. Sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ này là về việc làm (hoạt động tạo ra thu nhập mà pháp luật không cấm) và các điều kiện liên quan đến việc làm.

- Thứ ba, hợp đồng lao động là sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận này thể hiện ý chí của cả hai chủ thể tham gia ký kết hợp đồng lao động, tức là các bên phải biết đầy đủ và hiểu rõ các thông tin liên quan đến thỏa thuận, thỏa thuận chỉ được xác lập với sự tự nguyện, bình đẳng, trung thực giữa người sử dụng lao động và người lao động.

- Thứ tư, tên hợp đồng lao động không nhất thiết phải là hợp đồng lao động. Hợp đồng lao động được xác định dựa trên bản chất nội dung thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Chỉ cần nội dung của hợp đồng lao động có các nội dung liên quan đến việc làm như tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của hai bên, đặc biệt thể hiện trách nhiệm quản lý, giám sát của người sử dụng lao động đối với người lao động thì có thể coi là hợp đồng lao động dù tên gọi của hợp đồng có thể không phải là hợp đồng lao động.

- Thứ năm, thời điểm giao kết hợp đồng là trước khi người lao động làm việc (theo Khoản 2 Điều 13 Bộ luật lao động năm 2019). Việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động trước người sử dụng lao động.

Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động

Có 02 nguyên tắc cơ bản khi giao kết hợp đồng lao động (theo điều 15 Bộ luật lao động năm 2019):

Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực

Tự nguyện là một điều chắc chắn phải có của một thỏa thuận, hai bên được quyền tự do thảo luận, tự do quyết định dựa trên ý chí của bản thân về các nội dung của thỏa thuận cũng như việc giao kết mà không cần sự can thiệp của ý chí người thứ ba (trừ trường hợp người lao động là người chưa thành niên và dưới 15 tuổi).

Bình đẳng khi giao kết hợp đồng là khi hai bên cùng ở vị trí ngang hàng nhau khi giao kết hợp đồng. Do người lao động có phần phụ thuộc vào người sử dụng lao động vì người sử dụng lao động là người trả lương cho người lao động. Người sử dụng lao động không được chèn ép, bắt buộc người lao động dựa trên ưu thế của mình.

Thiện chí, hợp tác là một trong những yếu tố tiên quyết để giao kết hợp đồng. Nếu một trong hai bên không có thiện chí thỏa thuận, không hợp tác để thỏa thuận thì không thể giao kết được hợp đồng.

Trung thực khi giao kết hợp đồng là khi cả hai bên trung thực với nhau về thông tin mà mình cung cấp cho đối phương, từ các thông tin cá nhân cơ bản như tên, ngày sinh cho đến những thông tin liên quan đến công việc như trình độ, điều kiện làm việc,…

Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội

Việc giao kết hợp đồng được thực hiện tự do dựa trên ý chí của người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên vẫn phải nằm trong phạm vi mà pháp luật cho phép. Hợp đồng lao động không được trái pháp luật (ví dụ như không được sử dụng người lao động làm công việc trái pháp luật), nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Đồng thời hợp đồng lao động cũng phải tuân theo các thỏa ước lao động đã ký kết giữa tổ chức đại diện người lao động và người sử dụng lao động, và có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với người sử dụng lao động và tất cả người lao động của người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc giao kết hợp đồng lao động không được trái với đạo đức xã hội, gây ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục.

Hình thức giao kết hợp đồng lao động

Hình thức hợp đồng lao động là cách thức thể hiện ra bên ngoài của hợp đồng lao động. Theo đó, những nội dung, những điều khoản mà các bên thoả thuận trong hợp đồng được biểu hiện ra bản ngoài dưới một hình thức nhất định. Vì vậy, hình thức hợp đồng chính là biểu hiện của sự ghi nhân các cam kết, thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Tuỳ thuật vào nội dung, tính chất của từng loại công việc cũng như uy tín và độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn hình thức giao kết cho phù hợp. Tuy nhiên, lao động là lĩnh vực đặc thù nên việc giao kết hợp đồng lao động ở hình thức nào cũng sẽ phải tuân theo quy định của pháp luật. Theo Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019 có 03 hình thức giao kết hợp đồng lao động dưới đây:

Bằng văn bản

Hợp đồng lao động giao kết bằng văn bản là hợp đồng mà các cam kết của nó được ghi lại thành văn bản và có chữ kí của hai bên. Thông thường, cơ quan có thẩm quyền ban hành mẫu về hợp đồng lao động và trên cơ sở đó, NSDLĐ và NLĐ xây dựng bản hợp đồng lao động cho phù hợp.

Theo Khoản 1 Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019, hợp đồng lao động được giao kết bằng văn bản phải được làm thành 02 bản, 01 bản do người lao động giữ, 01 bản do người sử dụng lao động giữ, trừ trường hợp được giao kết hợp đồng bằng lời nói. Tuy nhiên, chính tại khoản 1 điều 14 cũng quy định về giao kết hợp đồng thông qua thông điệp điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu. Như vậy, có phải khi đã giao kết hợp đồng điện tử vẫn phải giao kết hợp đồng bằng văn bản? Trên thực tế, hợp đồng điện tử có giá trị pháp lý được công nhận như hợp đồng lao động bằng văn bản (tại Khoản 1 Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019) nên khi đã giao kết hợp đồng điện tử thì không cần phải giao kết bằng văn bản. Vì vậy chữ “phải” trong “hợp đồng lao động được giao kết bằng văn bản phải được làm thành 02 bản” là không hợp lý.

Bằng thông điệp điện tử

Đây là một điểm mới của Bộ luật lao động năm 2019, vì trước đây Bộ luật lao động năm 2012 chỉ quy định hai hình thức giao kết hợp đồng là bằng văn bản và bằng lời nói. Tuy nhiên tại Khoản 1 Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019 có quy định: “Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản.” Nói cách khác, có thể giao kết hợp đồng lao động bằng thông điệp điện tử, các bên thực hiện giao kết bằng chữ ký điện tử theo Luật giao dịch điện tử năm 2005. Có thể thực hiện giao kết một phần hoặc toàn bộ hợp đồng thông qua phương tiện điện tử, dưới hình thức thông điệp điện tử

Bằng lời nói

Theo Khoản 2 Điều 14 Bộ luật lao động năm 2019:

“Hai bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1 Điều 145 và khoản 1 Điều 162 của Bộ luật này.”

Theo đó, chỉ có trường hợp được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói nhất định, là hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ các trường hợp bắt buộc phải giao kết bằng văn bản: Giao kết hợp đồng lao động với nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên thông qua một người lao động trong nhóm được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động để làm công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng (Khoản 2 Điều 18), Giao kết hợp đồng lao động với người chưa đủ 15 tuổi (Điểm a Khoản 1 Điều 145), giao kết hợp đồng lao động với lao động là người giúp việc gia đình (Khoản 1 Điều 162). Điều này khác với Bộ luật lao động năm 2012 cho phép giao kết bằng lời nói đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 03 tháng mà không có trường hợp ngoại lệ nào. Hình thức giao kết này thường được áp dụng với những công việc có tính chất tạm thời, thời hạn hợp đồng ngân, quan hệ lao động nhìn chung không ổn định. Vì vậy, việc giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói thương chỉ áp dụng đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 1 tháng. Khi giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói, các bên phải tuân theo pháp luật

Như vậy, Bộ luật lao động năm 2019 đã có một số quy định mới về hình thức giao kết hợp đồng lao động. Đối với khái niệm hợp đồng lao động và nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động, Bộ luật lao động năm 2019 có điểm tương đồng vơi Bộ luật lao động năm 2012.                                                                                Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư