2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Trong những năm gần đây, các tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực lao động ở nước ta ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là việc tranh chấp về tiền lương, thu nhập, hợp đồng lao động. Theo đó, bài viết sau đây của Luật Hoàng Anh sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về tranh chấp lao động và một số vấn đề liên quan đến tranh chấp lao động.
- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019)
Trên cơ sở của quy định của các Bộ Luật lao động trước đây, Bộ Luật lao động 2019 đã đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động như sau:
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Theo đó, tranh chấp lao động trước hết phải là một tranh chấp nghĩa là có sự xung đột, bất đồng trong quan hệ lao động được thể hiện ra bên ngoài. Đây là loại tranh chấp về các vấn đề liên quan đến quá trình lao động, tức là quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt mối quan hệ lao động giữa các bên, Không chỉ vậy, tranh chấp lao động còn bao gồm cả các xung đột liên quan đến học nghề, việc làm.... tức là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của các bên gồm người lao động và người sử dụng lao động.
Vì vậy, tranh chấp lao động là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động trong quá trình thuê mướn, sử dụng lao động, bao gồm cả cá nhân và tập thể người lao động, đại diện các bên trong quan hệ lao động.
Các chủ thể trong quan hệ lao động bao gồm: Người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Trong đó phía người lao động gồm người lao động, người đại diện của người lao động dưới 15 tuổi, người giám hộ của người lao động,… Các chủ thể này có quyền giao kết hợp đồng lao động.
Phía người sử dụng lao động bao gồm đại diện theo pháp luật của người sử dụng lao động, người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người sử dụng lao động,… Các chủ thể này có thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động.
Tổ chức đại diện người lao động bao gồm Công đoàn và tổ chức của người lao động tại cơ sở.
Tổ chức đại diện người sử dụng lao động bao gồm hai chủ thể tiêu biểu là Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên trong quan hệ lao động có sự đối lập nhau. Quyền của người lao động là nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, ngược lại, nghĩa vụ của người lao động bảo đảm quyền của người sử dụng lao động. Tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động có nhiệm vụ bảo đảm quyền cho người lao động và người sử dụng lao động, cũng dẫn đến tình trạng tương tự như người lao động và người sử dụng lao động. Suy ra các tranh chấp giữa các chủ thể này với nhau về cơ bản xuất phát từ một bên vượt quá quyền của mình và một bên bị mất, cắt xén quyền của mình. Do đó các tranh chấp này chủ yếu giữa phía người sử dụng lao động (bao gồm tổ chức đại diện người lao động) và phía người lao động (bao gồm cả tổ chức đại diện người lao động). Rất ít khi xảy ra trường hợp tranh chấp lao động giữa người lao động và tổ chức đại diện người lao động, hay giữa tổ chức đại diện người sử dụng lao động và người sử dụng lao động.
Tuy nhiên theo Bộ luật lao động 2019, hiện nay không chỉ Công đoàn mà có nhiều tổ chức đại diện người lao động khác nhau được thành lập và hoạt động tại cơ sở. Các tổ chức này đều làm các nhiệm vụ đại diện cho người lao động nhưng lại không hề liên kết với nhau, trừ trường hợp kết hợp để yêu cầu thương lượng tập thể khi tất cả các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không đạt đủ yêu cầu về số lượng thành viên để độc lập yêu cầu tổ chức thương lượng tập thể. Do đó, giữa các tổ chức này có thể có sự cạnh tranh nhất định, dẫn đến xảy ra tranh chấp. Tranh chấp này cũng được gọi là tranh chấp lao động.
Một tranh chấp lao động phải được biểu hiện ra bên ngoài và biểu đạt rõ yêu cầu của một hoặc tất cả các bên về tranh chấp lao động đó. Các mâu thuẫn về quyền và lợi ích của chủ thể chưa bộc lộ ra bên ngoài mà mới chỉ trong suy nghĩ, trong tư duy thì chưa thể trở thành tranh chấp. Hình thức biếu hiện có thể bắt gặp như thể hiện thái độ của mình về tranh chấp, yêu cầu giải quyết tranh chấp....
Có thể phân loại tranh chấp lao động dựa vào một số tiêu chí như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất của nội dung tranh chấp lao động, tranh chấp lao động có 2 loại là tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích.
- Tranh chấp lao động về quyền và sự xung đột về các vấn đề đã được quy định trong các văn bản pháp luật hoặc đã được các bên thỏa thuận, cam kết trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc dưới các hình thức khác. Nói cách khác, tranh chấp lao động về quyền là sự xung đột về những nội dung đã được quy định, xác lập và đã có hiệu lực.
- Tranh chấp lao động về lợi ích là tranh chấp về những vấn ddeeff chưa được quy định hoặc chưa được thỏa thuận, phát sinh ngoài quy định, ngoài những anh chấp và nội dung, mục đích của tranh chấp.
Về dấu hiệu chủ thể, sự thể hiện về số lượng người lao động tham gia vào vụ tranh chấp là biểu hiện dễ nhận biết nhấ về một tranh chấp. Một vụ tranh chấp lao động cá nhân thưthỏa thuận, cam kết đã và đang có giá trị. Nói cách khác, tranh chấp lao động về lợi ích là sự xung đột về những nội dung chưa được quy định, chưa có hiệu lực.
Thứ hai, căn cứ vào chủ thể của tranh chấp lao động. Theo chủ thể của tranh chấp lao động, tranh chấp lao động bao gồm 02 loại: Tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Tranh chấp lao động cá nhân được hiểu là tranh chấp lao động xảy ra giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động. Về cơ bản, việc phân biệt hai loại tranh chấp lao động cá nhân và tập thể cần dựa vào các dấu hiệu về chủ thể người lao động tham gia trờng diễn ra giữa một người lao động cụ thể với người sử dụng lao động còn tranh chấp lao động tập thể thường diễn ra giữa đại diện tập thể với người sử dụng lao động. Tuy nhiên, số lượng người tham gia không phải là dấu hiệu cơ bản để nhận biết tranh chấp lao động cá nhân mà còn phải đặc trong mối tương quan chung về nội dung tranh chấp với mục đích, yêu cầu của những người tham gia vụ tranh chấp. Vì vậy, có những vụ tranh chấp có nhiều người tham gia những mỗi người có mục đích riêng, yêu cầu riêng và chỉ quan tâm đến mục đích, quyền lợi của riêng mình, hành động độc lập.... thì không thể là một tranh chấp lao động tập thể.
Nội dung của tranh chấp lao động tập thể liên quan tới quyền và lợi ích chung của cả tập thể lao động chẳng hạn như thương lượng tăng lương tối thiểu, cải thiện điều kiện lao động..... mà một khi đạt được kết quả thì toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp hoặc một bộ phân đều được hưởng. Trong khi đó, nội dung của tranh chấp lao động cá nhân chỉ liên quan đến cá nhân chủ thể phát sinh tranh chấp.Khoản 2,3 Điều 179 Bộ Luật lao động 2019 cũng đã quy định rõ các nội dung tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích. Theo đó:
- Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động phát sinh trong trường hợp sau đây:
+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác;
+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của pháp luật về lao động;
+ Khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động vì lý do thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động; can thiệp, thao túng tổ chức đại diện người lao động; vi phạm nghĩa vụ về thương lượng thiện chí.
- Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bao gồm:
+ Tranh chấp lao động phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể;
+ Khi một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, căn cứ vào đối tượng của tranh chấp lao động. Căn cứ vào đối tượng của tranh chấp lao động thì có thể chia ra thành tranh chấp về việc làm, tiền lượng và thu nhập, điều kiện làm việc, quyền công đoàn, bồi thường thiệt hại, bảo hiểm xã hội, tranh chấp về hợp đồng lao động, tranh chấp về thỏa ước lao động tập thể, trnh chấp về kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất...
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình giải quyết tranh chấp. Điều 180 Bộ Luật lao động 2019 quy định về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động bao gồm:
- Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt thông qua thương lượng của các bên trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng ý chí của các chủ thể trong giải quyết các vấn đề của chính họ trong quan hệ lao động. Việc đề ra nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết tranh chấp lao động, giúp cho các bên thấu hiểu lẫn nhâu, giải quyết hài hòa lợi ích của các bên, tăng cơ hội duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp.
- Thứ hai, nguyên tắc coi trọng giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải, trọng tài trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên tranh chấp, tôn trọng lợi ích chung của xã hội, không trái pháp luật. Về bản chất giải quyết tranh chấp bằng thủ tục hòa giải, trọng tài không chỉ là sự tiếp nối của thương lượng mà còn là những giải pháp tốt nhất để giải quyết tranh chấp lao động, đặc biệt với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, Đây là phương thức giải quyết tranh chấp ít tốn kém về thời gian và chi phí. So với phương thức giải quyết tại tòa án thì trọng tài có ưu điểm hơn là sau khi giải quyết xong tranh chấp, cơ hội để hai bên tiếp tục duy trì quan hệ lao động cao hơn.
- Thứ ba, nguyên tắc công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng và đúng pháp luật. Nguyên tắc này đặc ra xuất phát từ mục đích của giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các bên và giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
- Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm sự tham gia của đại diện các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Sự tham gia của đại diện các bên trong giải quyết tranh chấp chính là một trong những quyền cơ bản của các bên trong những quyền cơ bản của các bên trong quan hệ lao động và đặc biệt có ý nghĩa đối với người lao động.
- Thứ năm, việc giải quyết tranh chấp lao động do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tiến hành sau khi có yêu cầu của bên tranh chấp hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và được các bên tranh chấp đồng ý.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp lao động thông qua thương lượng trực tiếp giữa các bên. Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên trực tiếp gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn, bất đồng mà không cần sự tham gia của bên thứ ba. Đây là phương thức có tính truyền thống, được áp dụng đầu tiên khi các bên có nhu cầu giải quyết tranh chấp. Trong quá trình thương lượng, các bên sẽ cùng nhau xem xét, bàn bạc về các phương án xử lý để giải quyết các mâu thuẫn.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải. Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba. Bên thứ ba trung lập căn cứ vào tình tiết cụ thể và điều kiện của các bên giúp các bên đạt được thỏa thuận nhất định. Bên thứ ba thực hiện hòa giải có thể được xác định là cá nhân hoặc tổ chức, không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và có hiểu biết về vấn đề lao động, pháp luật cũng như có kĩ năng hòa giải.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài. Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba khách quan, công bằng, chính trực bằng việc đưa ra quyết định về vụ việc đối với hai bên tranh chấp. Ở Việt Nam, việc yêu cầu trọng giải quyết quyết tranh chấp là hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở thỏa thuận của các bên trong tranh chấp.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp lao động tài Tòa án. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp do Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và phán quyết được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh