2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Hoạt động giải quyết tranh chấp lao động trên thực tế cần tuân thủ theo những nguyên tắc luật định để đảm bảo tính công bằng, bình đằng cũng như đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Vậy pháp luật lao động hiện hành quy định thế nào về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động. Hãy GỌI NGAY tới số điện thoại 0908308123 để được Luật sư tư vấn pháp luật lao động MIỄN PHÍ hoặc tìm hiểu các thông tin pháp lý cần thiết thông qua nội dung bài viết dưới đây.
- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);
- Nghị định 45/2020/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về điều kiẹn lao động và quan hệ lao động.
Trên cơ sở của quy định của các Bộ Luật lao động trước đây, Bộ Luật lao động 2019 đã đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động như sau:
Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Nội hàm định nghĩa tranh chấp lao động theo Bộ Luật Lao động 2019 được mở rộng so với trước đây. Theo đó, tranh chấp lao động không chỉ là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động trong quá trình thuê mướn, sử dụng lao động mà còn là những tranh chấp phát sinh từ một số quan hệ liên quan đến quan hệ lao động như quan hệ về cho thuê lại lao động, đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường thietj hại giữa người lao động với doanh nghiệp....Ngoài ra, Bộ Luật lao động 2019 cũng thừa nhận tranh chấp phát sinh giữa các tổ chức người đại diện lao động, tranh chấp giữa một/nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một/nhiều tổ chức đại diện người sử dụng lao động là tranh chấp lao động..
Các chủ thể trong quan hệ lao động bao gồm: Người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động.
Trong đó phía người lao động gồm người lao động, người đại diện của người lao động dưới 15 tuổi, người giám hộ của người lao động,… Các chủ thể này có quyền giao kết hợp đồng lao động.
Phía người sử dụng lao động bao gồm đại diện theo pháp luật của người sử dụng lao động, người đứng đầu cơ quan, tổ chức là người sử dụng lao động,… Các chủ thể này có thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động.
Tổ chức đại diện người lao động bao gồm Công đoàn và tổ chức của người lao động tại cơ sở.
Tổ chức đại diện người sử dụng lao động bao gồm hai chủ thể tiêu biểu là Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
Quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên trong quan hệ lao động có sự đối lập nhau. Quyền của người lao động là nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, ngược lại, nghĩa vụ của người lao động bảo đảm quyền của người sử dụng lao động. Tổ chức đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động có nhiệm vụ bảo đảm quyền cho người lao động và người sử dụng lao động, cũng dẫn đến tình trạng tương tự như người lao động và người sử dụng lao động. Suy ra các tranh chấp giữa các chủ thể này với nhau về cơ bản xuất phát từ một bên vượt quá quyền của mình và một bên bị mất, cắt xén quyền của mình. Do đó các tranh chấp này chủ yếu giữa phía người sử dụng lao động (bao gồm tổ chức đại diện người lao động) và phía người lao động (bao gồm cả tổ chức đại diện người lao động). Rất ít khi xảy ra trường hợp tranh chấp lao động giữa người lao động và tổ chức đại diện người lao động, hay giữa tổ chức đại diện người sử dụng lao động và người sử dụng lao động.
Tuy nhiên theo Bộ luật lao động 2019, hiện nay không chỉ Công đoàn mà có nhiều tổ chức đại diện người lao động khác nhau được thành lập và hoạt động tại cơ sở. Các tổ chức này đều làm các nhiệm vụ đại diện cho người lao động nhưng lại không hề liên kết với nhau, trừ trường hợp kết hợp để yêu cầu thương lượng tập thể khi tất cả các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không đạt đủ yêu cầu về số lượng thành viên để độc lập yêu cầu tổ chức thương lượng tập thể. Do đó, giữa các tổ chức này có thể có sự cạnh tranh nhất định, dẫn đến xảy ra tranh chấp. Tranh chấp này cũng được gọi là tranh chấp lao động.
Một tranh chấp lao động phải được biểu hiện ra bên ngoài và biểu đạt rõ yêu cầu của một hoặc tất cả các bên về tranh chấp lao động đó. Các mâu thuẫn về quyền và lợi ích của chủ thể chưa bộc lộ ra bên ngoài mà mới chỉ trong suy nghĩ, trong tư duy thì chưa thể trở thành tranh chấp. Hình thức biếu hiện có thể bắt gặp như thể hiện thái độ của mình về tranh chấp, yêu cầu giải quyết tranh chấp....
Có thể phân loại tranh chấp lao động dựa vào một số tiêu chí như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất của nội dung tranh chấp lao động, tranh chấp lao động có 2 loại là tranh chấp về quyền và tranh chấp về lợi ích.
- Tranh chấp lao động về quyền và sự xung đột về các vấn đề đã được quy định trong các văn bản pháp luật hoặc đã được các bên thỏa thuận, cam kết trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc dưới các hình thức khác. Nói cách khác, tranh chấp lao động về quyền là sự xung đột về những nội dung đã được quy định, xác lập và đã có hiệu lực.
- Tranh chấp lao động về lợi ích là tranh chấp về những vấn ddeeff chưa được quy định hoặc chưa được thỏa thuận, phát sinh ngoài quy định, ngoài những anh chấp và nội dung, mục đích của tranh chấp.
Về dấu hiệu chủ thể, sự thể hiện về số lượng người lao động tham gia vào vụ tranh chấp là biểu hiện dễ nhận biết nhấ về một tranh chấp. Một vụ tranh chấp lao động cá nhân thưthỏa thuận, cam kết đã và đang có giá trị. Nói cách khác, tranh chấp lao động về lợi ích là sự xung đột về những nội dung chưa được quy định, chưa có hiệu lực.
Thứ hai, căn cứ vào chủ thể của tranh chấp lao động. Theo chủ thể của tranh chấp lao động, tranh chấp lao động bao gồm 02 loại: Tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Tranh chấp lao động cá nhân được hiểu là tranh chấp lao động xảy ra giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động. Về cơ bản, việc phân biệt hai loại tranh chấp lao động cá nhân và tập thể cần dựa vào các dấu hiệu về chủ thể người lao động tham gia trờng diễn ra giữa một người lao động cụ thể với người sử dụng lao động còn tranh chấp lao động tập thể thường diễn ra giữa đại diện tập thể với người sử dụng lao động. Tuy nhiên, số lượng người tham gia không phải là dấu hiệu cơ bản để nhận biết tranh chấp lao động cá nhân mà còn phải đặc trong mối tương quan chung về nội dung tranh chấp với mục đích, yêu cầu của những người tham gia vụ tranh chấp. Vì vậy, có những vụ tranh chấp có nhiều người tham gia những mỗi người có mục đích riêng, yêu cầu riêng và chỉ quan tâm đến mục đích, quyền lợi của riêng mình, hành động độc lập.... thì không thể là một tranh chấp lao động tập thể.
Nội dung của tranh chấp lao động tập thể liên quan tới quyền và lợi ích chung của cả tập thể lao động chẳng hạn như thương lượng tăng lương tối thiểu, cải thiện điều kiện lao động..... mà một khi đạt được kết quả thì toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp hoặc một bộ phân đều được hưởng. Trong khi đó, nội dung của tranh chấp lao động cá nhân chỉ liên quan đến cá nhân chủ thể phát sinh tranh chấp.Khoản 2,3 Điều 179 Bộ Luật lao động 2019 cũng đã quy định rõ các nội dung tranh chấp lao động tập thể về quyền và lợi ích. Theo đó:
- Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động phát sinh trong trường hợp sau đây:
+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác;
+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của pháp luật về lao động;
+ Khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động vì lý do thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động; can thiệp, thao túng tổ chức đại diện người lao động; vi phạm nghĩa vụ về thương lượng thiện chí.
- Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bao gồm:
+ Tranh chấp lao động phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể;
+ Khi một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, căn cứ vào đối tượng của tranh chấp lao động. Căn cứ vào đối tượng của tranh chấp lao động thì có thể chia ra thành tranh chấp về việc làm, tiền lượng và thu nhập, điều kiện làm việc, quyền công đoàn, bồi thường thiệt hại, bảo hiểm xã hội, tranh chấp về hợp đồng lao động, tranh chấp về thỏa ước lao động tập thể, trnh chấp về kỉ luật lao động, trách nhiệm vật chất...
Theo Điều 180 Bộ luật lao động 2019, có 05 nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động:
Các bên tham gia giải quyết tranh chấp lao động vẫn có thể tự thương lượng với nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động. Nếu cơ chế tự thương lượng đạt hiệu quả thì không cần đến hoạt động giải quyết tranh chấp lao động của hòa giải viên, hội đồng trọng tài và tòa án nhân dân nữa. Các bên không phải tốn nhiều chi phí mà vẫn đạt được ở mức tối thiểu mong muốn của mình. Quyền tự định đoạt thông qua thương lượng này không chỉ thể hiện trong quá trình các bên giải quyết tranh chấp lao động mà còn cả trước khi các bên khiến vấn đề chung thành tranh chấp lao động. Nhà nước tạo điều kiện cho các bên tự quyết các vấn đề của mình nếu không có dấu hiệu vi phạm pháp luật, do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động, dù là ở giai đoạn nào trừ khi đã có phán quyết của tòa án, hội đồng trọng tài lao động, chỉ cần các bên tự thương lượng thỏa thuận được kết quả thì coi như tranh chấp được giải quyết.
Việc giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải luôn được ưu tiên hơn so với thông qua trọng tài hay tòa án nhân dân, do trên thực tế biện pháp giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải vẫn dựa trên thỏa thuận, thương lượng giữa các bên dưới sự thúc đẩy của hòa giải viên. Ngoài ra, giải quyết tranh chấp lao động thông qua tòa án nhân dân tốn nhiều chi phí cũng như thời gian của các bên tranh chấp hơn so với hòa giải hay trọng tài. Các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua 02 phương thức này phải tôn trọng kết quả giải quyết tranh chấp, đồng thời kết quả này phải đảm bảo lợi ích của hai bên tranh chấp, không trái với lợi ích chung của xã hội và pháp luật.
Các bên cùng tham gia giải quyết tranh chấp lao động theo một trình tự nhất định theo quy định của pháp luật. Trong suốt quá trình này, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cũng như các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động phải đảm bảo công khai, minh bạch, khách quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật. Công khai, minh bạch ở đây là công khai, minh bạch toàn bộ chứng cứ, các văn bản liên quan, quan điểm của các bên. Hoạt động giải quyết tranh chấp cũng phải được thực hiện một cách khách quan và kịp thời, do đó pháp luật lao động có quy định về thời hiệu để giải quyết tranh chấp lao động. Tranh chấp lao động phải được giải quyết theo quy trình nhất quán, đúng pháp luật, các bên tham gia phải đảm bảo tôn trọng các quyết định của hội đồng trọng tài lao động, tòa án nhân dân.
Sự tham gia của đại diện ở đây có thể là sự tham gia của người đại diện cho tổ chức đại diện tổ chức người lao động, hoặc người đại diện cho người sử dụng lao động, người đại diện cho tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Đại diện các bên phải tham gia vào các hoạt động giải quyết tranh chấp lao động, từ các phiên họp hòa giải đến các hoạt động giải quyết của hội đồng trọng tài lao động và tòa án nhân dân. Điều này đảm bảo các bên có cơ hội bằng nhau trong giải quyết tranh chấp cũng như thể hiện sự tôn trọng đối với các bên còn lại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động khi có yêu cầu của bên tranh chấp, nhưng yêu cầu phải trong thời hiệu quy định. Quá thời hiệu mà pháp luật quy định thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không thực hiện giải quyết tranh chấp cho các bên. Theo nguyên tắc này, việc giải quyết tranh chấp lao động qua cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chỉ được tiến hành khi:
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lao động (hòa giải viên, hội đồng trọng tài, tòa án nhân dân)
- Có yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc theo đề nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (được các bên tranh chấp đồng ý).
Như vậy, Bộ Luật lao động 2019 có các quy định đầy đủ hơn về nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động so với Bộ luật lao động cũ (04 nguyên tắc), đồng thời thể hiện định hướng của Nhà nước cho các bên có phạm vi tự giải quyết tranh chấp lớn hơn so với trước kia.
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp lao động thông qua thương lượng trực tiếp giữa các bên. Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên trực tiếp gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn, bất đồng mà không cần sự tham gia của bên thứ ba. Đây là phương thức có tính truyền thống, được áp dụng đầu tiên khi các bên có nhu cầu giải quyết tranh chấp. Trong quá trình thương lượng, các bên sẽ cùng nhau xem xét, bàn bạc về các phương án xử lý để giải quyết các mâu thuẫn.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải. Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba. Bên thứ ba trung lập căn cứ vào tình tiết cụ thể và điều kiện của các bên giúp các bên đạt được thỏa thuận nhất định. Bên thứ ba thực hiện hòa giải có thể được xác định là cá nhân hoặc tổ chức, không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và có hiểu biết về vấn đề lao động, pháp luật cũng như có kĩ năng hòa giải.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài. Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba khách quan, công bằng, chính trực bằng việc đưa ra quyết định về vụ việc đối với hai bên tranh chấp. Ở Việt Nam, việc yêu cầu trọng giải quyết quyết tranh chấp là hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở thỏa thuận của các bên trong tranh chấp.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp do Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà nước tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và phán quyết được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.
Trên đây là nội dung pháp lý liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp lao động. Trường hợp có thắc măc, hãy LIÊN HỆ NGAY với Công ty Luật Hoàng Anh qua số điện thoại 0908308123 để được tư vấn trực tiếp và cung cấp dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng bởi những Luật sư UY TÍN - CHẤT LƯỢNG.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh