Nơi nào sử dụng lao động không được đình công? (Phần 1)

Thứ ba, 27/06/2023, 09:36:01 (GMT+7)

Bài viết giải thích về 03 trong 06 nhóm những nơi sử dụng lao động không được đình công

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Đình công là một trong những quyền cơ bản của người lao động. Tuy nhiên trong một số trường hợp, người lao động không thể thực hiện được quyền đình công do nơi sử dụng lao động không được đình công theo quy định của pháp luật. Vậy pháp luật hiện hành quy định thế nào về những nơi sử dụng lao động này? Tại sao không được đình công ở những nơi này? Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);

- Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 12 năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

Đình công là gì?

Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế, được thực hiện bởi nhiều người lao động nhằm gây sức ép về mặt kinh tế đến người sử dụng lao động và đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Tức là, khi người lao động ngừng việc, người sử dụng lao động phải chịu thiệt hại về kinh tế khi không có nguồn nhân lực sản xuất, không thể sản xuất, kinh doanh đúng theo tiến trình đặt ra, có thể bị chậm giao hàng, chậm thực hiện hợp đồng lao động do đình công. Ngược lại, người lao động khi gây sức ép như vậy lên người sử dụng lao động với mục đích đạt được các lợi ích về mặt kinh tế, như tăng tiền lương, giảm giờ làm (nhưng vẫn được hưởng mức lương cơ bản),…

Ví dụ: Trường hợp của hãng hàng không Airfrance, nhân viên đình công đòi tăng 6% lương dẫn đến thiệt hại 500 triệu USD trong đó thiệt hại 25,5 triệu USD/ngày do 80% chuyến bay không thể cất cánh.

Dưới góc độ xã hội, đình công là hoạt động ngừng việc của người lao động, có thể gây bất ổn xã hội nhưng cũng có thể góp phần xây dựng, bảo vệ những giá trị tiến bộ. Bởi vì đình công là hoạt động tập thể có quy mô lớn, nên các ảnh hưởng của hoạt động này có thể lan ra ngoài phạm vi doanh nghiệp, người sử dụng lao động, đến phạm vi vùng, hoặc có thể ảnh hưởng đến cả quốc gia. Hoạt động đình công cũng xuất phát từ sự bức xúc do không thể giải quyết tranh chấp lao động của người lao động, nên khi thực hiện hoạt động này dễ xảy ra bạo loạn, mất trật tự an ninh. Ví dụ: Đình công ở Hi Lạp do chính sách “thắt lưng buộc bụng” của nước này để có được sự viện trợ của các nước EU, có sự tham gia của hơn 70.000 người, trong số đó có những người lao động tham gia biểu tình, tiến hành đập phá, bạo loạn, chống đối cảnh sát thi hành nhiệm vụ, gây mất trật tự an ninh nghiêm trọng. Ngược lại, có những trường hợp đình công gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội của đất nước nói riêng và của thế giới nói chung. Ví dụ: Cuộc đình công tại Chicago, gồm 40.000 người, sau đó mở rộng ra khắp các bang ở Mỹ, dẫn đến Đại hội liên đoàn lao động Mỹ phải ra quyết định: “...Từ ngày 01/05/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Từ đây, rất nhiều nước quy định thời giờ làm việc tối đa của người lao động là 08 giờ, đồng thời ngày 01/05 trở thành ngày Quốc tế lao động.

Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền cơ bản của người lao động, do đó, pháp luật nước nào cũng nên có quy định về hoạt động đình công của người lao động.

Đối với pháp luật Việt Nam, căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019:

Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo.

Dựa vào quy định này, có thể phân tích khái niệm đình công như sau:

Thứ nhất, đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức được thực hiện bởi người lao động. Hoạt động đình công do người lao động thực hiện và chỉ có người lao động có thể thực hiện. Một người lao động cũng không thể thực hiện đình công do không gây được áp lực về kinh tế lên người sử dụng lao động. Do vậy, phải có một số lượng lớn người lao động tham gia ngừng việc, thì mới đủ khả năng khiến người sử dụng lao động cân nhắc yêu cầu của người lao động, và đáp ứng điều kiện đầu tiên để trở thành “đình công”. 

Thứ hai, đình công được tổ chức và lãnh đạo bởi tổ chức đại diện người lao động có thẩm quyền thương lượng tập thể và là một bên tranh chấp lao động tập thể. Do đình công của người lao động phải có tổ chức, cần có một chủ thể có thể lãnh đạo và tổ chức một cách bài bản, hợp pháp cho hoạt động ngừng việc của người lao động. Chủ thể phù hợp nhất là tổ chức đại diện người lao động vì chủ thể này có sự liên kết chặt chẽ đối với người lao động, đại diện cho người lao động thực hiện thể hiện một số quyền của người lao động với người sử dụng lao động (như đóng góp ý kiến tham khảo để người sử dụng lao động xây dựng nội quy lao động) và cũng là chủ thể có quyền tham gia vào các cuộc họp kỷ luật lao động, tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho người lao động như tuyên truyền phòng, chống quấy rối tình dục,… Đồng thời cũng là chủ thể có quyền tham gia và yêu cầu thương lượng tập thể.

Thứ ba, đình công có mục đích là đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể. Mục đích của đình công không phải để người sử dụng lao động chịu thiệt hại về vật chất hay trả thù người sử dụng lao động. Mục đích của đình công là gây áp lực cho người sử dụng lao động, khiến người sử dụng lao động phải có các động thái phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động giải quyết tranh chấp lao động, hoặc phải có phương án mà các bên tranh chấp cùng chấp nhận được để kết thúc tranh chấp này.

Các dấu hiệu của đình công

Từ việc phân tích khái niệm đình công, có thể thấy việc nhận dạng đình công phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau đây:

- Dấu hiệu thứ nhất: Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi ngừng việc hoàn toàn. Trong điều kiện bình thường, người lao động có nghĩa vụ phải làm việc theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc sự phân công của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động hay một thể thể khác, tập thể lao động có thể ngững việc nhằm gây áp lực buộc chủ thể kia phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này được coi là hợp pháp hay bất hợp pháp tùy thuộc vào quy định của pháp luật những đây là dấu hiệu đầu tiên, là thuộc tính cơ bản phản ánh tính chất của đình công. 

- Dấu hiệu thứ hai: Đình công là hiện tượng phản ứng có tính tập thể được tiến hành bởi những người lao động. Đình công là biện pháp phản ứng của tập thể lao động. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không thể thiếu của đình công. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt đình công với sự ngừng việc của cá nhân người lao động. Thông thường, nếu cá nhân người lao động tự ý ngừng việc nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động sẽ bị coi là vi phạm kỉ luật lao động, cá nhân đó có thể phải chịu chế tài kỉ luật hoặc phải bồi thường thiệt hại (nếu có) cho chủ sử dụng lao động. Nhưng nếu là hành vi ngừng việc được thực hiện bởi tập thể lao động, là nhóm người có cùng động cơ và mục đích hoạt động, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả trong quá trình đình công nhằm gây sức ép thì lại được coi là đình công.

- Dấu hiệu thứ baĐình công được thực hiện một cách có tổ chức. Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là người có lãnh đạo đình công, đình công có yêu sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành phần lãnh đạo đình công có thể là tổ chức đại diện của những người lao động như công đoàn hay nghiệp đoàn hoặc tổ chức đại diện cho người lao động tại doanh nghiệp. Trong thực tế, tính tổ chức của đình công thường thể hiện như sau:

(i) Có một cá nhân hoặc một nhóm người đóng vai trò lãnh đâọ đình công, những người này đại diện cho ý chí của tập thể lao động và tập thể này sẽ tuân thủ sự chỉ đạo của họ trong quá trình đình công

(ii) Có phương án hành động cụ thể được xác định rõ ràng trong từng thời điểm, phương án này thường được chuẩn bị trước khi tiến hành đình công.

(iii) Có phương châm hành động với những nguyên tắc và thể lệ rõ ràng được mọi người tôn trọng;

(iv) Được sự giúp đỡ về vật chất hoặc ủng hộ về tinh thần của các cá nhân hoặc tổ chức khác đối với những người tham gia đình công thông qua vai trò của một tổ chức lãnh đạo chung.

- Dấu hiệu thứ tư: mục đích của đình công là nhằm đạt những yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động. Khi tiến hành đình công, những người lao động gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại với người sử dụng lao động hay một chủ thể khác để đạt được những yêu sách nhất định.Trong trường hợp nhà nước và người sử dụng lao động không có các biện pháp phù hợp nhằm điều hòa, hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao động, khiến người lao động cho rằng không còn các biện pháp ôn hòa nào có thể bảo vệ quyền lợi của mình, họ sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập thể nhằm gây sức ép với nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động - đó chính là hiện tượng đình công.

Thời điểm được phép đình công theo quy định của pháp luật

Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, để giải quyết tranh chấp thì trước hết người sử dụng lao động và tập thể người lao động phải tự dàn xếp, thương lượng, thỏa thuận với nhau. Trường hợp hai bên không thể tự thương lượng được với nhau, khi đó cần đến sự can thiệp của bên thứ ba là hòa giản viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động. Việc hòa giải của hòa giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động phải được tiến hành theo thủ tục luật định. Khi hết thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập mà ban trọng tài không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp có quyền tiến hành đình công theo trình tự, thủ tục luật định.

Như vậy, pháp luật quy định việc đình công chỉ được phép tiến hành đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và sau thời hạn luật định. Pháp luật đã quy định khoảng thời gian hợp lý để các bên có thể giải quyết tranh chấp lao động bằng phương pháp hòa giải nhằm hạn chế tối đa việc đình công gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tập thể người lao động và người sử dụng lao động.

Chủ thể có thẩm quyền lãnh đạo đình công

Căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019, chủ thể có thẩm quyền tổ chức và lãnh đạo đình công là tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Trong đó, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyên của người lao động tại một đơn bị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhận và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao độngl tham gia quản lí nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chính của tổ chức công đoàn đó là bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động - bên yếu thế trong mối quan hệ đối với người sử dụng lao động.

Sự xuất hiện của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là một điểm mới của Bộ Luật lao động 2019. Quy định này xuất phát từ việc thúc đẩy áp dụng các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do liên minh Châu Âu -  Việt Nam. Khi tập thể người lao động xảy ra tranh chấp với người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn cũng như tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp sẽ đứng ra làm đại diện cho tập thể người lao động thực hiện các quyền pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động.

Đình công có thể diễn ra tại tất cả các nơi sử dụng lao động không?

Khoản 1 Điều 209 Bộ luật lao động 2019 quy định như sau:

 Không được đình công ở nơi sử dụng lao động mà việc đình công có thể đe dọa đến quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe của con người.

Theo đó, không phải tất cả mọi nơi sử dụng lao động đều được phép thực hiện đình công. Đối với các ngành, lĩnh vực thiết yếu mà nếu đình công xảy ra sẽ có nguy cơ gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân, lợi ích cộng đồng, đe dọa đến quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe của người dân thì sẽ không được đình công. Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định danh mục các nơi sử dụng lao động không được đình công quy định cụ thể các doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp trong 06 ngành, lĩnh vực trọng yếu theo nguyên tắc có kế thừa và điều chỉnh bổ sung dựa trên quy mô và vị trí quan trọng trong ngành, lĩnh vực cho phù hợp với thực tiễn.

 Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động trong các trường hợp này, pháp luật lao động hiện hành cũng quy  định rõ, cụ thể quy trình giải quyết yêu cầu của tập thể lao động ở đơn vị sử dụng lao động không được đình công và trách nhiệm, cơ chế hỗ trợ của cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc giải quyết yêu cầu của tập thể lao động ở đơn vị sử dụng lao động không được đình công. 

Danh mục các nơi sử dụng lao động không được đình công 

Theo Phụ lục số VI kèm theo Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định có 06 nhóm nơi sử dụng lao động không được đình công, trong đó có 03 nhóm sau:

Nơi sử dụng lao động thực hiện sản xuất, truyền tải, điều độ hệ thống điện

Những nơi sử dụng lao động này bao gồm:

- Ba đơn vị thuộc Công ty mẹ - Tập đoàn Điện lực Việt Nam, gồm: Công ty Thủy điện Hòa Bình; Công ty Thủy điện Sơn La; Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia.

- Công ty Nhiệt điện Duyên Hải thuộc Tổng Công ty Phát điện 1

- Công ty Nhiệt điện Phú Mỹ thuộc Tổng Công ty Phát điện 3

- Các Công ty truyền tải điện thuộc Tổng công ty Truyền tải điện quốc (trong đó có Công ty truyền tải điện 1, công ty truyền tải điện 2, công ty truyền tải điện 3, công ty truyền tải điện 4 và các đơn vị trực thuộc)

Đây là các công ty, tổng công ty này nắm giữ vai trò quan trọng trong sản xuất, điều hành điện lưới quốc gia. Ví dụ: Công ty Thủy điện Hòa Bình, Công ty Thủy điện Sơn La có nhà máy sản xuất điện với công suất lớn nhất cả nước (Nhà máy Thủy điện Hòa bình có công suất 1920 MW, sắp tới nâng lên 2400 MW, bằng với công suất của Nhà máy Thủy điện Sơn La), việc đình công tại 02 công ty này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn cung cấp điện của quốc gia và gây ảnh hưởng không chỉ với doanh nghiệp mà còn với toàn bộ chủ thể sử dụng điện do 02 công ty này cung cấp, do đó không thể đình công tại 02 nơi sử dụng này được. Tương tự đối với các công ty Nhiệt điện Duyên Hải, Phú Mỹ là 02 công ty sản xuất nhiệt điện lớn nhất cả nước đồng thời đóng vị trí quan trọng với nguồn cung cấp điện cho mạng lưới điện miền Nam, vì vậy người lao động của các công ty này không được đình công. Tổng công ty truyền tải điện quốc gia và các đơn vị trực thuộc làm nhiệm vụ cung cấp điện cho khắp nơi trên cả nước, nếu người lao động của tổng công ty, công ty con đình công thì có thể nhiều khu vực không được cung cấp điện, gây tổn thất lớn cho các doanh nghiệp trên địa bàn đó cũng như người dân trong sinh hoạt, sử dụng điện.

Nơi sử dụng lao động thực hiện thăm dò, khai thác, sản xuất, cung cấp dầu khí 

Nhóm những nơi sử dụng lao động này bao gồm:

- Công ty Điều hành đường ống Tây Nam thuộc Công ty mẹ - Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.

- 02 đơn vị thuộc Tổng công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí, gồm: Công ty điều hành Thăm dò khai thác Dầu khí trong nước; Công ty liên doanh điều hành Vietgazprom.

- 08 đơn vị thuộc Tổng công ty Khí Việt Nam, gồm: Công ty Chế biến khí Vũng Tàu; Công ty Vận chuyển khí Đông Nam Bộ; Công ty kinh doanh sản phẩm khí; Công ty khí Cà Mau; Công ty đường ống khí Nam Côn Sơn; Công ty cổ phần LPG Việt Nam; Công ty cổ phần kinh doanh khí Miền Nam; Công ty cổ phần Phân phối khí thấp áp Dầu khí Việt Nam.

- Liên doanh Việt - Nga Vietsopetro

Đây là các đơn vị thăm dò, khai thác, sản xuất, cung cấp dầu khí để Việt Nam xuất khẩu hoặc sử dụng trong nước. Trên thực tế, các doanh nghiệp này không chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong việc cung cấp dầu khí, làm giàu cho quốc gia mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, do các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí (thông qua các thiết bị thăm dò, như dàn khoan) thể hiện Việt Nam có quyền khai thác khoáng sản trên biển Đông, do các quốc gia có quyền thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong vùng nội thủy, vùng đặc quyền kinh tế, và vùng thềm lục địa của mình. Do đó, hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí ở vùng biển Đông phải thực hiện một cách thường xuyên liên tục, nhất là khi Việt Nam có tranh chấp với rất nhiều nước về chủ quyền trên biển như Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei. Cũng chính vì vậy, người lao động của các doanh nghiệp này không được đình công.

Nơi sử dụng lao động thực hiện đảm bảo an toàn hàng không, an toàn hàng hải

Nhóm những nơi sử dụng lao động này bao gồm:

- Các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo đảm hoạt động bay thuộc Tổng công ty Quản lý bay Việt Nam.

- Các cảng hàng không thuộc Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, gồm: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Cam Ranh, Cần Thơ

- Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Bắc

- Tổng công ty Bảo đảm an toàn hàng hải miền Nam

- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Hoa tiêu hàng hải TKV

- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thông tin điện tử hàng hải Việt Nam

Giống như đối với lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, lĩnh vực đảm bảo an toàn hàng không, hàng hải cũng ảnh hưởng rất lớn đến an ninh, quốc phòng nói chung cũng như tính mạng, sức khỏe con người nói riêng. Kiểm soát hàng không và hàng hải chỉ được thực hiện trong vùng trời và vùng biển của Việt Nam, do đó, việc quản lý bay, đi lại trên biển là một cách để Việt Nam thực hiện các quyền chủ quyền đối với lãnh thổ của mình. Đồng thời, do thuyền bè, máy bay đi lại trên không và trên biển không có tầm nhìn tốt như trên đất liền, có thể gặp ảnh hưởng bởi thời tiết và các hiện tượng khí hậu khác nhau, cũng như khó có thể kiểm soát các hành vi vi phạm pháp luật trên biển, trên không, vì thế những người sử dụng lao động trên phải hoạt động liên tục, không ngừng nghỉ để đảm bảo an ninh, an toàn cho con người cũng như thực hiện chủ quyền quốc gia.

Trên đây là 03 trong 06 nhóm người sử dụng lao động mà người lao động của người sử dụng lao động không được đình công. Để biết thêm về 03 trường hợp còn lại, xin tham khảo: “Nơi nào sử dụng lao động không được đình công? (Phần 2)”.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư