Quyền của người sử dụng lao động trước và trong quá trình đình công như thế nào?

Thứ tư, 22/11/2023, 09:27:06 (GMT+7)

Bài viết này giải thích về quyền của người sử dụng lao động trước và trong quá trình đình công

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Đình công là một khái niệm được biết đến khá rộng rãi trong xã hội, vì đình công là một hoạt động tập thể có tính chất ảnh hưởng cao trong xã hội và nhiều ngành nghề khác nhau. Đình công cũng có thể dẫn đến những hậu quả không lường trước được nếu không được quản lý chặt chẽ, hoặc có thể tạo được những ảnh hưởng to lớn đối với xã hội. Đó là những quyền nào? Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về vấn đề này hoặc GỌI NGAY cho Luật Hoàng Anh qua số điện thoại: 0908 308 123 để được LUẬT SƯ tư vấn MIỄN PHÍ về dịch vụ giấy phép lao động cũng như các quyền lợi liên quan.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);

Đình công là gì?

Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế, được thực hiện bởi nhiều người lao động nhằm gây sức ép về mặt kinh tế đến người sử dụng lao động và đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Tức là, khi người lao động ngừng việc, người sử dụng lao động phải chịu thiệt hại về kinh tế khi không có nguồn nhân lực sản xuất, không thể sản xuất, kinh doanh đúng theo tiến trình đặt ra, có thể bị chậm giao hàng, chậm thực hiện hợp đồng lao động do đình công. Ngược lại, người lao động khi gây sức ép như vậy lên người sử dụng lao động với mục đích đạt được các lợi ích về mặt kinh tế, như tăng tiền lương, giảm giờ làm (nhưng vẫn được hưởng mức lương cơ bản),…

Ví dụ: Trường hợp của hãng hàng không Airfrance, nhân viên đình công đòi tăng 6% lương dẫn đến thiệt hại 500 triệu USD trong đó thiệt hại 25,5 triệu USD/ngày do 80% chuyến bay không thể cất cánh.

Dưới góc độ xã hội, đình công là hoạt động ngừng việc của người lao động, có thể gây bất ổn xã hội nhưng cũng có thể góp phần xây dựng, bảo vệ những giá trị tiến bộ. Bởi vì đình công là hoạt động tập thể có quy mô lớn, nên các ảnh hưởng của hoạt động này có thể lan ra ngoài phạm vi doanh nghiệp, người sử dụng lao động, đến phạm vi vùng, hoặc có thể ảnh hưởng đến cả quốc gia. Hoạt động đình công cũng xuất phát từ sự bức xúc do không thể giải quyết tranh chấp lao động của người lao động, nên khi thực hiện hoạt động này dễ xảy ra bạo loạn, mất trật tự an ninh. Ví dụ: Đình công ở Hi Lạp do chính sách “thắt lưng buộc bụng” của nước này để có được sự viện trợ của các nước EU, có sự tham gia của hơn 70.000 người, trong số đó có những người lao động tham gia biểu tình, tiến hành đập phá, bạo loạn, chống đối cảnh sát thi hành nhiệm vụ, gây mất trật tự an ninh nghiêm trọng. Ngược lại, có những trường hợp đình công gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội của đất nước nói riêng và của thế giới nói chung. Ví dụ: Cuộc đình công tại Chicago, gồm 40.000 người, sau đó mở rộng ra khắp các bang ở Mỹ, dẫn đến Đại hội liên đoàn lao động Mỹ phải ra quyết định: “...Từ ngày 01/05/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Từ đây, rất nhiều nước quy định thời giờ làm việc tối đa của người lao động là 08 giờ, đồng thời ngày 01/05 trở thành ngày Quốc tế lao động.

Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền cơ bản của người lao động, do đó, pháp luật nước nào cũng nên có quy định về hoạt động đình công của người lao động.

Đối với pháp luật Việt Nam, căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019:

Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo.

Dựa vào quy định này, có thể phân tích khái niệm đình công như sau:

Thứ nhất, đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức được thực hiện bởi người lao động

Hoạt động đình công do người lao động thực hiện và chỉ có người lao động có thể thực hiện. Một người lao động cũng không thể thực hiện đình công do không gây được áp lực về kinh tế lên người sử dụng lao động. Do vậy, phải có một số lượng lớn người lao động tham gia ngừng việc, thì mới đủ khả năng khiến người sử dụng lao động cân nhắc yêu cầu của người lao động, và đáp ứng điều kiện đầu tiên để trở thành “đình công”. Những người lao động này cũng không ngừng việc hẳn, không đơn phương chấm dứt hợp đồng vì đình công với mục đích đảm bảo yêu cầu của người lao động, nếu đã nghỉ việc, thôi việc đồng loạt thì không còn đáp ứng mục đích của đình công nữa.

Đình công là sự ngừng việc của người lao động dù số lượng là bao nhiêu cũng phải được diễn ra một cách tự nguyện và có tổ chức. Nếu người lao động bị ép thực hiện đình công thì các yêu cầu đối với người sử dụng lao động không phải là yêu cầu, mong muốn của người lao động, dẫn đến hoạt động ngừng việc không còn mang ý nghĩa bảo đảm, nâng cao quyền lợi của người lao động nữa, thì không thể coi là đình công. Tương tự, nếu hoạt động ngừng việc của một nhóm lao động được thực hiện tự phát, không có tổ chức lãnh đạo, dẫn đến không có sự thống nhất trong ngừng việc và các hoạt động khác trong quá trình ngừng việc, có thể xảy ra các hành vi quá khích như đập phá, bạo động,… gây mất trật tự, an ninh xã hội, như vậy không thể coi là đình công hợp pháp.

Thứ hai, đình công được tổ chức và lãnh đạo bởi tổ chức đại diện người lao động có thẩm quyền thương lượng tập thể và là một bên tranh chấp lao động tập thể

Do đình công của người lao động phải có tổ chức, cần có một chủ thể có thể lãnh đạo và tổ chức một cách bài bản, hợp pháp cho hoạt động ngừng việc của người lao động. Chủ thể phù hợp nhất là tổ chức đại diện người lao động vì chủ thể này có sự liên kết chặt chẽ đối với người lao động, đại diện cho người lao động thực hiện thể hiện một số quyền của người lao động với người sử dụng lao động (như đóng góp ý kiến tham khảo để người sử dụng lao động xây dựng nội quy lao động) và cũng là chủ thể có quyền tham gia vào các cuộc họp kỷ luật lao động, tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho người lao động như tuyên truyền phòng, chống quấy rối tình dục,… Đồng thời cũng là chủ thể có quyền tham gia và yêu cầu thương lượng tập thể.

Tuy nhiên hiện nay, có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được thành lập và hoạt động. Tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng là tổ chức đạt đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên do Chính phủ quy định, nếu tại cơ sở có nhiều tổ chức đại diện người lao động có đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên thì tổ chức có nhiều thành viên hơn có quyền yêu cầu thương lượng tập thể. Ngoài ra nếu các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không có đủ số thành viên thì có thể kết hợp với nhau để yêu cầu tham gia thương lượng tập thể. Các chủ thể này sau đó trở thành bên tranh chấp trong tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, hoặc tranh chấp lao động tập thể về quyền thì có quyền và trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức đình công khi không thể giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên, hội đồng trọng tài.

Thứ ba, đình công có mục đích là đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Mục đích của đình công không phải để người sử dụng lao động chịu thiệt hại về vật chất hay trả thù người sử dụng lao động. Mục đích của đình công là gây áp lực cho người sử dụng lao động, khiến người sử dụng lao động phải có các động thái phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động giải quyết tranh chấp lao động, hoặc phải có phương án mà các bên tranh chấp cùng chấp nhận được để kết thúc tranh chấp này.

Phân loại đình công

Căn cứ vào tính chất của đinh công

Căn cứ vào tính chất đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công kinh tế và đình công chính trị. 

- Đình công kinh tế: Là những cuộc đình công nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động hoặc chủ thể khác để đạt được quyền và lợi ích lớn hơn liên quan đến quan hệ lao động như việc làm, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động.... trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, nghề nghiệp. Đây là loại đình công phổ biến nhất, phản ánh rõ nét bản chất của đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế.

- Đình công chính trị: Là những cuộc đình công nhằm gây sức ép để phản đối chính quyền hoặc nhà nước hoặc các đảng phái chính trị nhằm đạt được các mục đích chính trị mà người đình công quan tâm. Thông thường cuộc đình công chính trị là nhằm phản đối chính sách hoặc quy định liên quan đến quyền lợi của giới lao động và xảy ra trên phạm vi quy mô lớn. Đình công chính trị có ảnh hướng lớn đến trật tự, an ninh xã hội và sự tồn tại của các chế độ cầm quyền trong phạm vi quốc gia.

Căn cứ vào mục đích đình công

Căn cứ vào mục đích đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công yêu sách và đình công hưởng ứng. 

- Đình công yêu sách là những cuộc đình công nhằm đạt được các yêu sách về quyền và lợi ích cho chính những người lao động tham gia đình công. Điều này cũng không loại trừ trường hợp yêu cầu mà những người đình công đưa ra có thể còn mang lại lợi ích cho những người không tham gia đình công. Pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận những cuộc đình công nhằm giải quyết những tranh chấp lao động thể mới là hợp pháp. Đa số các cuộc đình công hiện nay là đình công yêu sách.

- Đình công hưởng ứng: Là những cuộc đình công nhằm ủng hộ, bày tỏ thái độ đồng tình để hỗ trợ cho cuộc đình công khác trong khi những người tham gia đình công không có yêu sách về quyền và lợi ích của mình. Những cuộc đình công hưởng ứng thường xuất hiện ở những nơi sử dụng lao động tập trung như các khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc trong một ngành, trong những ngành liên quan hoặc khi khi nghiệp đoàn của người lao động kêu gọi ủng hộ. 

Căn cứ vào phạm vi đình công

Căn cứ vào phạm vi đình công, có thể chia đình công thành bốn loại là đình công bộ phận doanh nghiệp, đình công doanh nghiệp, đình công ngành/khu vực và tổng đình công.

- Đình công bộ phận doanh nghiệp: Là những cuộc đình công do tập thể lao động trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành. Trong đó, mô hình doanh nghiệp ở đây được hiểu là một đơn vị sử dụng lao động. Đây là các đơn vị thường xảy ra đình công, cũng là phạm vi đình công thường được pháp luật thừa nhận.

- Đình công ngành/khu vực: Là những cuộc đình công của những người lao động trong phạm vi một ngành/khu vực tiến hành.

- Tổng đình công: Là những cuộc đình công của những người lao động trong phạm vi nhiều ngành hoặc nhiều khu vực trong cả nước tiến hành. Về nguyên tắc, tổng đình công có thể do giới lao động trong phạm vi quốc gia tiến hành. 

Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công

Căn cứ vào tính hợp pháp của đình công, có thể chia đình công thành hai loại là đình công hợp pháp và đình công bất hợp pháp. 

- Đình công hợp pháp: Là các cuộc đình công tuân thủ các quy định của pháp luật. Mục đích cơ bản của các quy định này là để nhà nước kiểm soát đình công, hạn chế những cuộc đình công không cần thiết hoặc có tính chất tiêu diệu đối phương, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc dân, an ninh quốc phòng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, đình công được coi là hợp pháp nếu thuộc các trường hợp người lao động có quyền đình công, đồng thời không thuộc các trường hợp đình công bất hợp pháp. 

- Đình công bất hợp pháp: Là cuộc đình công vi phạm các quy định pháp luật về đình công. 

Các dấu hiệu của đình công

Từ việc phân tích khái niệm đình công, có thể thấy việc nhận dạng đình công phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau đây:

- Dấu hiệu thứ nhất: Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi ngừng việc hoàn toàn. Trong điều kiện bình thường, người lao động có nghĩa vụ phải làm việc theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc sự phân công của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động hay một thể thể khác, tập thể lao động có thể ngững việc nhằm gây áp lực buộc chủ thể kia phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này được coi là hợp pháp hay bất hợp pháp tùy thuộc vào quy định của pháp luật những đây là dấu hiệu đầu tiên, là thuộc tính cơ bản phản ánh tính chất của đình công. 

Dấu hiệu thứ hai: Đình công là hiện tượng phản ứng có tính tập thể được tiến hành bởi những người lao động. Đình công là biện pháp phản ứng của tập thể lao động. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không thể thiếu của đình công. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt đình công với sự ngừng việc của cá nhân người lao động. Thông thường, nếu cá nhân người lao động tự ý ngừng việc nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động sẽ bị coi là vi phạm kỉ luật lao động, cá nhân đó có thể phải chịu chế tài kỉ luật hoặc phải bồi thường thiệt hại (nếu có) cho chủ sử dụng lao động. Nhưng nếu là hành vi ngừng việc được thực hiện bởi tập thể lao động, là nhóm người có cùng động cơ và mục đích hoạt động, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả trong quá trình đình công nhằm gây sức ép thì lại được coi là đình công.

- Dấu hiệu thứ ba: Đình công được thực hiện một cách có tổ chức. Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là người có lãnh đạo đình công, đình công có yêu sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành phần lãnh đạo đình công có thể là tổ chức đại diện của những người lao động như công đoàn hay nghiệp đoàn hoặc tổ chức đại diện cho người lao động tại doanh nghiệp. Trong thực tế, tính tổ chức của đình công thường thể hiện như sau:

(i) Có một cá nhân hoặc một nhóm người đóng vai trò lãnh đâọ đình công, những người này đại diện cho ý chí của tập thể lao động và tập thể này sẽ tuân thủ sự chỉ đạo của họ trong quá trình đình công

(ii) Có phương án hành động cụ thể được xác định rõ ràng trong từng thời điểm, phương án này thường được chuẩn bị trước khi tiến hành đình công.

(iii) Có phương châm hành động với những nguyên tắc và thể lệ rõ ràng được mọi người tôn trọng;

(iv) Được sự giúp đỡ về vật chất hoặc ủng hộ về tinh thần của các cá nhân hoặc tổ chức khác đối với những người tham gia đình công thông qua vai trò của một tổ chức lãnh đạo chung.

- Dấu hiệu thứ tư: mục đích của đình công là nhằm đạt những yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động. Khi tiến hành đình công, những người lao động gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại với người sử dụng lao động hay một chủ thể khác để đạt được những yêu sách nhất định.Trong trường hợp nhà nước và người sử dụng lao động không có các biện pháp phù hợp nhằm điều hòa, hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao động, khiến người lao động cho rằng không còn các biện pháp ôn hòa nào có thể bảo vệ quyền lợi của mình, họ sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập thể nhằm gây sức ép với nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động - đó chính là hiện tượng đình công.

Thời điểm được phép đình công theo quy định của pháp luật

Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, để giải quyết tranh chấp thì trước hết người sử dụng lao động và tập thể người lao động phải tự dàn xếp, thương lượng, thỏa thuận với nhau. Trường hợp hai bên không thể tự thương lượng được với nhau, khi đó cần đến sự can thiệp của bên thứ ba là hòa giản viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động. Việc hòa giải của hòa giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động phải được tiến hành theo thủ tục luật định. Khi hết thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập mà ban trọng tài không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp có quyền tiến hành đình công theo trình tự, thủ tục luật định.

Như vậy, pháp luật quy định việc đình công chỉ được phép tiến hành đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và sau thời hạn luật định. Pháp luật đã quy định khoảng thời gian hợp lý để các bên có thể giải quyết tranh chấp lao động bằng phương pháp hòa giải nhằm hạn chế tối đa việc đình công gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tập thể người lao động và người sử dụng lao động.

Quyền của người sử dụng lao động trước và trong quá trình đình công

Theo Khoản 1 và Khoản 3 Điều 203 Bộ luật lao động 2019, người sử dụng lao động có 04 quyền trước và trong quá trình đình công như sau:

Tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Không chỉ riêng người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức lãnh đạo đình công cũng có quyền này. Khi tổ chức đình công, tổ chức đại diện người lao động có thể có các hoạt động sau:

- Tự tham gia thỏa thuận giải quyết nội dung tranh chấp lao động tập thể với người sử dụng lao động: Trước thời gian đình công, tổ chức đại diện người lao động thông báo cho người sử dụng lao động biết về thời gian, địa điểm tổ chức đình công ít nhất 05 ngày trước khi tổ chức đình công. Người sử dụng lao động đã có thời gian cân nhắc giải quyết tranh chấp lao động, nên trong thời gian từ trước khi đình công đến trong thời gian đình công, nếu người sử dụng lao động chấp thuận yêu cầu của người lao động thì hai bên có thể tự thỏa thuận, giải quyết mà không cần bất kỳ sự can thiệp của bên thứ ba nào.

- Cùng đề nghị hòa giải viên, Hội đồng trọng tài lao động tiến hành giải quyết tranh chấp lao động: Một trong các điều kiện để tổ chức đại diện người lao động đình công là đã tham gia hòa giải nhưng không thành hoặc hết hạn yêu cầu giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải viên, nên nếu 02 bên có thể thỏa thuận đề nghị hòa giải viên giải quyết tranh chấp lần nữa thì chỉ có thể trong trường hợp hòa giải không thành. Khác với trường hợp hòa giải viên, đối với Hội đồng trọng tài lao động, điều kiện để được tổ chức đình công là Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động, nên các bên có thể tiến hành nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Hội đồng trọng tài lao động lần nữa để giải quyết tranh chấp.

Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu và thông báo bằng văn bản cho tổ chức đại diện người lao động đang tổ chức và lãnh đạo đình công

Yêu cầu của người lao động là mục tiêu mà người lao động hướng tới khi đình công. Người lao động và tổ chức đại diện người lao động chỉ chấm dứt đình công (hoặc rút quyết định đình công nếu chưa tổ chức đình công) khi người sử dụng lao động có động thái chấp nhận yêu cầu của mình. Nhưng người sử dụng lao động không nhất thiết phải chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người lao động và tổ chức đại diện người lao động, mà có thể chấp nhận một phần và tiến hành thỏa thuận thêm với tổ chức đại diện người lao động để chấm dứt đình công (hoặc rút quyết định đình công). Việc chấp nhận yêu cầu này phải được thông báo bằng văn bản cho tổ chức đại diện người lao động và lãnh đạo đình công để có thể là chứng cứ trong trường hợp có tranh chấp xảy ra về sự chấp thuận của người sử dụng lao động.

Đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong thời gian đình công do không đủ điều kiện để duy trì hoạt động bình thường hoặc để bảo vệ tài sản

Người sử dụng lao động có thể đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong thời gian đình công. Trên thực tế nếu người lao động ngừng việc, người sử dụng lao động không có nhân lực thực hiện công việc dẫn tới gián đoạn sản xuất, kinh doanh, thậm chí không đủ khả năng để duy trì hoạt động chung của người sử dụng lao động nên việc mở cửa nơi sản xuất có thể gây gây tốn nhiều chi phí cho người sử dụng lao động về việc đảm bảo điều kiện lao động, vệ sinh, an toàn tại nơi làm việc mà vẫn không đạt được mục tiêu kinh tế đề ra. Đồng thời, khi nơi làm việc không có người lao động, an ninh tại đây có thể không được đảm bảo tuyệt đối, hoặc người lao động trong quá trình ngừng việc có thể vẫn đến nơi làm việc và có những hành vi nguy hại đến máy móc, thiết bị, vật tư của người sử dụng lao động. Do đó, người sử dụng lao động có quyền tiến hành đóng cửa tạm thời nơi làm việc để đảm bảo vấn đề tài chính cho mình và an toàn tại nơi làm việc của người lao động.

Yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là bất hợp pháp

Cũng như tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công hợp pháp, người sử dụng lao động cũng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là bất hợp pháp, do trong quá trình đình công, người sử dụng lao động có thể phát hiện ra các vi phạm của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công và người lao động tham gia đình công. Người sử dụng lao động có quyền thu thập chứng cứ, tài liệu chứng minh các hành vi trái pháp luật về lao động liên quan đến đình công (quy định tại Điều 204 Bộ luật lao động 2019) của bên còn lại của tranh chấp để yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp. Việc yêu cầu này được xác định là yêu cầu xét tính hợp pháp của đình công, được quy định tại Điều 403 đến Điều 413 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Hành vi bị nghiêm cấm trước, trong và sau khi đình công

Căn cứ theo quy định tại Điều 208 Bộ Luật lao động 2019, để bảo vệ quyền đình công của người lao động cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, pháp luật quy định những hành vi bị cấm trước, trong và sau quá trình đình công, bao gồm:

- Cản trở việc thực hiện quyền đình công hoặc kích động, lôi kéo, ép buộc người lao động đình công; cản trở người lao động không tham gia đình công đi làm việc.

- Dùng bạo lực; hủy hoại máy, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động.

- Xâm phạm trật tự, an toàn công cộng.

- Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động, người lãnh đạo đình công hoặc điều động người lao động, người lãnh đạo đình công sang làm công việc khác, đi làm việc ở nơi khác vì lý do chuẩn bị đình công hoặc tham gia đình công.

- Trù dập, trả thù người lao động tham gia đình công, người lãnh đạo đình công.

- Lợi dụng đình công để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Theo đó, quy định này đã dự liệu hầu hết các trường hợp có thể xảy ra nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ lao động và bảo vệ an toàn xã hội, trật tự công cộng. 

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư