Quyền của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công trước và trong quá trình đình công như thế nào?

Thứ tư, 21/06/2023, 16:12:26 (GMT+7)

Bài viết giải thích về quyền của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công trước và trong quá trình đình công

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có vai trò đặc biệt quan trọng xuyên suốt quá trình đình công. Để thực hiện tối đa vai trò này, pháp luật quy định về một số quyền nhất định đối với Tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công. Bài viết sau đây của Luật Hoàng Anh sẽ trình bày về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);

Đình công là gì?

Theo góc độ pháp lý, đình công là quyền cơ bản của người lao động, do đó, pháp luật nước nào cũng nên có quy định về hoạt động đình công của người lao động.

Đối với pháp luật Việt Nam, căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019:

Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo.

Dựa vào quy định này, có thể phân tích khái niệm đình công như sau:

Thứ nhất, đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức được thực hiện bởi người lao động

Hoạt động đình công do người lao động thực hiện và chỉ có người lao động có thể thực hiện. Một người lao động cũng không thể thực hiện đình công do không gây được áp lực về kinh tế lên người sử dụng lao động. Do vậy, phải có một số lượng lớn người lao động tham gia ngừng việc, thì mới đủ khả năng khiến người sử dụng lao động cân nhắc yêu cầu của người lao động, và đáp ứng điều kiện đầu tiên để trở thành “đình công”. Những người lao động này cũng không ngừng việc hẳn, không đơn phương chấm dứt hợp đồng vì đình công với mục đích đảm bảo yêu cầu của người lao động, nếu đã nghỉ việc, thôi việc đồng loạt thì không còn đáp ứng mục đích của đình công nữa.

Đình công là sự ngừng việc của người lao động dù số lượng là bao nhiêu cũng phải được diễn ra một cách tự nguyện và có tổ chức. Nếu người lao động bị ép thực hiện đình công thì các yêu cầu đối với người sử dụng lao động không phải là yêu cầu, mong muốn của người lao động, dẫn đến hoạt động ngừng việc không còn mang ý nghĩa bảo đảm, nâng cao quyền lợi của người lao động nữa, thì không thể coi là đình công. Tương tự, nếu hoạt động ngừng việc của một nhóm lao động được thực hiện tự phát, không có tổ chức lãnh đạo, dẫn đến không có sự thống nhất trong ngừng việc và các hoạt động khác trong quá trình ngừng việc, có thể xảy ra các hành vi quá khích như đập phá, bạo động,… gây mất trật tự, an ninh xã hội, như vậy không thể coi là đình công hợp pháp.

Thứ hai, đình công được tổ chức và lãnh đạo bởi tổ chức đại diện người lao động có thẩm quyền thương lượng tập thể và là một bên tranh chấp lao động tập thể

Do đình công của người lao động phải có tổ chức, cần có một chủ thể có thể lãnh đạo và tổ chức một cách bài bản, hợp pháp cho hoạt động ngừng việc của người lao động. Chủ thể phù hợp nhất là tổ chức đại diện người lao động vì chủ thể này có sự liên kết chặt chẽ đối với người lao động, đại diện cho người lao động thực hiện thể hiện một số quyền của người lao động với người sử dụng lao động (như đóng góp ý kiến tham khảo để người sử dụng lao động xây dựng nội quy lao động) và cũng là chủ thể có quyền tham gia vào các cuộc họp kỷ luật lao động, tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho người lao động như tuyên truyền phòng, chống quấy rối tình dục,… Đồng thời cũng là chủ thể có quyền tham gia và yêu cầu thương lượng tập thể.

Tuy nhiên hiện nay, có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được thành lập và hoạt động. Tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng là tổ chức đạt đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên do Chính phủ quy định, nếu tại cơ sở có nhiều tổ chức đại diện người lao động có đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên thì tổ chức có nhiều thành viên hơn có quyền yêu cầu thương lượng tập thể. Ngoài ra nếu các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không có đủ số thành viên thì có thể kết hợp với nhau để yêu cầu tham gia thương lượng tập thể. Các chủ thể này sau đó trở thành bên tranh chấp trong tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, hoặc tranh chấp lao động tập thể về quyền thì có quyền và trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức đình công khi không thể giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên, hội đồng trọng tài.

Thứ ba, đình công có mục đích là đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Mục đích của đình công không phải để người sử dụng lao động chịu thiệt hại về vật chất hay trả thù người sử dụng lao động. Mục đích của đình công là gây áp lực cho người sử dụng lao động, khiến người sử dụng lao động phải có các động thái phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động giải quyết tranh chấp lao động, hoặc phải có phương án mà các bên tranh chấp cùng chấp nhận được để kết thúc tranh chấp này.

Các dấu hiệu của đình công

Từ việc phân tích khái niệm đình công, có thể thấy việc nhận dạng đình công phải dựa vào những dấu hiệu cơ bản sau đây:

- Dấu hiệu thứ nhất: Đình công là sự phản ứng của những người lao động thông qua hành vi ngừng việc hoàn toàn. Trong điều kiện bình thường, người lao động có nghĩa vụ phải làm việc theo thỏa thuận trong hợp đồng hoặc sự phân công của người sử dụng lao động. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra bất đồng giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động hay một thể thể khác, tập thể lao động có thể ngững việc nhằm gây áp lực buộc chủ thể kia phải chấp nhận các yêu sách. Sự ngừng việc này được coi là hợp pháp hay bất hợp pháp tùy thuộc vào quy định của pháp luật những đây là dấu hiệu đầu tiên, là thuộc tính cơ bản phản ánh tính chất của đình công. 

Dấu hiệu thứ hai: Đình công là hiện tượng phản ứng có tính tập thể được tiến hành bởi những người lao động. Đình công là biện pháp phản ứng của tập thể lao động. Sự tham gia của tập thể lao động vừa là một trong các biểu hiện bên ngoài của đình công, vừa là một dấu hiệu không thể thiếu của đình công. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt đình công với sự ngừng việc của cá nhân người lao động. Thông thường, nếu cá nhân người lao động tự ý ngừng việc nhằm gây sức ép với người sử dụng lao động sẽ bị coi là vi phạm kỉ luật lao động, cá nhân đó có thể phải chịu chế tài kỉ luật hoặc phải bồi thường thiệt hại (nếu có) cho chủ sử dụng lao động. Nhưng nếu là hành vi ngừng việc được thực hiện bởi tập thể lao động, là nhóm người có cùng động cơ và mục đích hoạt động, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả trong quá trình đình công nhằm gây sức ép thì lại được coi là đình công.

- Dấu hiệu thứ ba: Đình công được thực hiện một cách có tổ chức. Tính tổ chức của cuộc đình công được hiểu là người có lãnh đạo đình công, đình công có yêu sách rõ ràng và đã được chuẩn bị trước. Thành phần lãnh đạo đình công có thể là tổ chức đại diện của những người lao động như công đoàn hay nghiệp đoàn hoặc tổ chức đại diện cho người lao động tại doanh nghiệp. Trong thực tế, tính tổ chức của đình công thường thể hiện như sau:

(i) Có một cá nhân hoặc một nhóm người đóng vai trò lãnh đâọ đình công, những người này đại diện cho ý chí của tập thể lao động và tập thể này sẽ tuân thủ sự chỉ đạo của họ trong quá trình đình công

(ii) Có phương án hành động cụ thể được xác định rõ ràng trong từng thời điểm, phương án này thường được chuẩn bị trước khi tiến hành đình công.

(iii) Có phương châm hành động với những nguyên tắc và thể lệ rõ ràng được mọi người tôn trọng;

(iv) Được sự giúp đỡ về vật chất hoặc ủng hộ về tinh thần của các cá nhân hoặc tổ chức khác đối với những người tham gia đình công thông qua vai trò của một tổ chức lãnh đạo chung.

- Dấu hiệu thứ tư: mục đích của đình công là nhằm đạt những yêu sách gắn với lợi ích của tập thể lao động. Khi tiến hành đình công, những người lao động gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại với người sử dụng lao động hay một chủ thể khác để đạt được những yêu sách nhất định.Trong trường hợp nhà nước và người sử dụng lao động không có các biện pháp phù hợp nhằm điều hòa, hạn chế những mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ với người lao động, khiến người lao động cho rằng không còn các biện pháp ôn hòa nào có thể bảo vệ quyền lợi của mình, họ sẽ phản ứng bằng cách ngừng việc tập thể nhằm gây sức ép với nhà nước hoặc chủ sử dụng lao động - đó chính là hiện tượng đình công.

Thời điểm được phép đình công theo quy định của pháp luật

Khi xảy ra tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, để giải quyết tranh chấp thì trước hết người sử dụng lao động và tập thể người lao động phải tự dàn xếp, thương lượng, thỏa thuận với nhau. Trường hợp hai bên không thể tự thương lượng được với nhau, khi đó cần đến sự can thiệp của bên thứ ba là hòa giản viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động. Việc hòa giải của hòa giải viên lao động hoặc hội đồng trọng tài lao động phải được tiến hành theo thủ tục luật định. Khi hết thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết mà ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày được thành lập mà ban trọng tài không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì tổ chức đại diện người lao động là bên tranh chấp có quyền tiến hành đình công theo trình tự, thủ tục luật định.

Như vậy, pháp luật quy định việc đình công chỉ được phép tiến hành đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích và sau thời hạn luật định. Pháp luật đã quy định khoảng thời gian hợp lý để các bên có thể giải quyết tranh chấp lao động bằng phương pháp hòa giải nhằm hạn chế tối đa việc đình công gây ảnh hưởng đến quyền lợi của tập thể người lao động và người sử dụng lao động.

Chủ thể có thẩm quyền lãnh đạo đình công

Căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019, chủ thể có thẩm quyền tổ chức và lãnh đạo đình công là tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Trong đó, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyên của người lao động tại một đơn bị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhận và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao độngl tham gia quản lí nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ chính của tổ chức công đoàn đó là bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động - bên yếu thế trong mối quan hệ đối với người sử dụng lao động.

Sự xuất hiện của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là một điểm mới của Bộ Luật lao động 2019. Quy định này xuất phát từ việc thúc đẩy áp dụng các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế trong khuôn khổ Hiệp định thương mại tự do liên minh Châu Âu -  Việt Nam. Khi tập thể người lao động xảy ra tranh chấp với người sử dụng lao động, tổ chức công đoàn cũng như tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp sẽ đứng ra làm đại diện cho tập thể người lao động thực hiện các quyền pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động.

Quyền của tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công

Trong thời gian đình công hoặc trước thời gian tổ chức đình công, tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có những quyền gì? Sau đây Luật Hoàng Anh xin trình bày về vấn đề này.

Theo Khoản 1 và Khoản 2 Điều 203 Bộ luật lao động 2019, tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có 03 quyền trước và trong quá trình đình công như sau:

Tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp lao động tập thể

Không chỉ riêng tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công, người sử dụng lao động cũng có quyền này. Khi tổ chức đình công, tổ chức đại diện người lao động có thể có các hoạt động sau:

- Tự tham gia thỏa thuận giải quyết nội dung tranh chấp lao động tập thể với người sử dụng lao động: Trước thời gian đình công, tổ chức đại diện người lao động thông báo cho người sử dụng lao động biết về thời gian, địa điểm tổ chức đình công. Người sử dụng lao động đã có thời gian cân nhắc giải quyết tranh chấp lao động. Nên trong thời gian từ trước khi đình công đến trong thời gian đình công, nếu người sử dụng lao động chấp thuận yêu cầu của người lao động thì hai bên có thể tự thỏa thuận, giải quyết mà không cần bất kỳ sự can thiệp của bên thứ ba nào.

- Cùng đề nghị hòa giải viên, Hội đồng trọng tài lao động tiến hành giải quyết tranh chấp lao động: Một trong các điều kiện để tổ chức đại diện người lao động đình công là đã tham gia hòa giải nhưng không thành hoặc hết hạn yêu cầu giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải viên, nên nếu 02 bên có thể thỏa thuận đề nghị hòa giải viên giải quyết tranh chấp lần nữa thì chỉ có thể trong trường hợp hòa giải không thành. Khác với trường hợp hòa giải viên, đối với Hội đồng trọng tài lao động, điều kiện để được tổ chức đình công là Ban trọng tài lao động không được thành lập hoặc thành lập nhưng không ra quyết định giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của Ban trọng tài lao động, nên các bên có thể tiến hành nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến Hội đồng trọng tài lao động lần nữa để giải quyết tranh chấp.

Rút quyết định đình công nếu chưa đình công hoặc chấm dứt đình công nếu đang đình công

Đình công là một hoạt động có tổ chức, người lao động đình công theo sự tổ chức, lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động, nên tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo, tổ chức đình công thì cũng có quyền rút quyết định đình công nếu chưa đình công hoặc chấm dứt đình công nếu đang đình công nhưng cần phải có nguyên nhân chính đáng:

- Do tổ chức đại diện người lao động và người sử dụng lao động đã đạt được những thỏa thuận nhất định, người sử dụng lao động chấp nhận yêu cầu của người lao động, tổ chức đại diện người lao động. Trong trường hợp này, người lao động tham gia đình công, tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công đều đạt được mục đích của mình khi tiến hành đình công, nên tổ chức đại diện người lao động rút quyết định đình công (nếu chưa đình công) hoặc chấm dứt đình công (nếu đang đình công).

- Do hoạt động đình công bắt đầu không có kiểm soát, xảy ra sai lầm trong việc tổ chức, lãnh đạo đình công, để tránh người lao động, tổ chức đại diện người lao động vi phạm pháp luật, tổ chức đình công rút quyết định đình công hoặc chấm dứt đình công.

- Do trường hợp cấp thiết cần người lao động phải làm việc. Ví dụ dịch bệnh đang lan truyền mạnh không kiểm soát trong thành phố nhưng bị thiếu vật tư y tế nghiêm trọng trong khi tại công ty sản xuất vật tư y tế lớn nhất vùng thì người lao động đang đình công. Khi đó tổ chức đại diện người lao động có thể lấy ý kiến người lao động và chấm dứt đình công.

Yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là hợp pháp

Người sử dụng lao động, dưới tư cách là một bên của tranh chấp lao động tập thể thì có thể không công nhận đình công của người lao động là hợp pháp. Vì vậy, tổ chức đại diện người lao động lãnh đạo đình công có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là hợp pháp, đây là một loại yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân về lĩnh vực dân sự (mở rộng). Thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công hợp pháp được quy định tại Điều 403 đến Điều 413 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Trình tự, thủ tục đình công

Bước 1: Chuẩn bị đình công

Theo quy định tại Bộ Luật lao động 2019, thủ tục chuẩn bị đình công bao gồm:

(i) Lấy ý kiến về đình công. Điều 201 Bộ Luật lao động 2019 quy định như sau:

- Trước khi tiến hành đình công, tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công quy định tại Điều 198 của Bộ luật này có trách nhiệm lấy ý kiến của toàn thể người lao động hoặc thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tham gia thương lượng.

- Nội dung lấy ý kiến bao gồm:

+ Đồng ý hay không đồng ý đình công;

+ Phương án của tổ chức đại diện người lao động về nội dung quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều 202 của Bộ luật này.

- Việc lấy ý kiến được thực hiện trực tiếp bằng hình thức lấy phiếu hoặc chữ ký hoặc hình thức khác.

- Thời gian, địa điểm và cách thức tiến hành lấy ý kiến về đình công do tổ chức đại diện người lao động quyết định và phải thông báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 01 ngày. Việc lấy ý kiến không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của người sử dụng lao động. Người sử dụng lao động không được gây khó khăn, cản trở hoặc can thiệp vào quá trình tổ chức đại diện người lao động tiến hành lấy ý kiến về đình công.

(ii) Ra quyết định đình công và thông báo đình công. Điều 202 Bộ Luật lao động 2019 quy định: 

-  Khi có trên 50% số người được lấy ý kiến đồng ý với nội dung lấy ý kiến đình công theo quy định tại khoản 2 Điều 201 của Bộ luật này thì tổ chức đại diện người lao động ra quyết định đình công bằng văn bản.

- Quyết định đình công phải có các nội dung sau đây:

+ Kết quả lấy ý kiến đình công;

+ Thời điểm bắt đầu đình công, địa điểm đình công;

+ Phạm vi tiến hành đình công;

+ Yêu cầu của người lao động;

+ Họ tên, địa chỉ liên hệ của người đại diện cho tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công.

- Ít nhất là 05 ngày làm việc trước ngày bắt đầu đình công, tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công phải gửi văn bản về việc quyết định đình công cho người sử dụng lao động, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

- Đến thời điểm bắt đầu đình công, nếu người sử dụng lao động vẫn không chấp nhận giải quyết yêu cầu của người lao động thì tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công.

Bước 2: Tiến hành đình công

Đến thời điểm bắt đầu đình công, nếu người sử dụng lao động vẫn không chấp nhận giải quyết yêu cầu của tập thể lao động thì tổ chức đại diện người lao động tổ chức và lãnh đạo đình công.

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư