Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền như thế nào?

Thứ ba, 20/06/2023, 09:20:06 (GMT+7)

Bài viết này giải thích về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền

Ngày nay, khi mà các mối quan hệ xã hội ngày càng phát triển, các tranh chấp nói chung hay tranh chấp lao động nói riêng diễn ra ngày càng nhiều. Tranh chấp lao động có thể xuất phát từ việc quyền lợi của một cá nhân bị vi phạm (tranh chấp lao động cá nhân) hoặc quyền và lợi ích của cả tập thể lao động bị xâm phạm (tranh chấp lao động tập thể). Trong tranh chấp lao động tập thể lại được chia ra thành tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Bài viết sau đây của Luật Hoàng Anh sẽ trình bày về cụ thể về tranh chấp lao động tập thể về quyền và thẩm quyền giải quyết loại tranh chấp này.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);

- Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 12 năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động là gì?

Trên cơ sở của quy định của các Bộ Luật lao động trước đây, Bộ Luật lao động 2019 đã đưa ra định nghĩa về tranh chấp lao động như sau:

 Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các bên trong quá trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện người lao động với nhau; tranh chấp phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.

 

Theo đó, tranh chấp lao động trước hết phải là một tranh chấp nghĩa là có sự xung đột, bất đồng trong quan hệ lao động được thể hiện ra bên ngoài. Đây là loại tranh chấp về các vấn đề liên quan đến quá trình lao động, tức là quá trình xác lập, duy trì, chấm dứt mối quan hệ lao động giữa các bên, Không chỉ vậy, tranh chấp lao động còn bao gồm cả các xung đột liên quan đến học nghề, việc làm.... tức là những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích của các bên gồm người lao động và người sử dụng lao động. 

Vì vậy, tranh chấp lao động là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động trong quá trình thuê mướn, sử dụng lao động, bao gồm cả cá nhân và tập thể người lao động, đại diện các bên trong quan hệ lao động. 

Tranh chấp lao động tập thể là gì?

Tranh chấp lao động tập thể là một trong các loại tranh chấp được quy định tịa Bộ Luật Lao động 2019. Điểm b khoản 1 Điều 179 Bộ Luật lao động 2019 quy định về tranh chấp lao động tập thể như sau: 

Tranh chấp lao động tập thể về quyền hoặc về lợi ích giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động.

Tranh chấp lao động tập thể được hiểu là tranh chấp phát sinh từ những mâu thuẫn, bất đồng giữa một bên là một hoặc nhiều người sử dụng lao động (hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động) với một bên là tập thể lao động (hoặc tổ chức đại diện tập thể lao động) về các quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ lao động tập thể. Căn cứ theo quy định tại khoản 2,3 Điều 179 Bộ Luật lao động 2019 thì tranh chấp lao động tập thể chia làm hai loại là tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. 

Theo đó:

- Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động phát sinh trong trường hợp sau đây:

+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác;

+ Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của pháp luật về lao động;

+ Khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động vì lý do thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động; can thiệp, thao túng tổ chức đại diện người lao động; vi phạm nghĩa vụ về thương lượng thiện chí.

- Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bao gồm:

+ Tranh chấp lao động phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể;

+ Khi một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Dấu hiệu của tranh chấp lao động tập thể 

Tranh chấp lao động tập thể đều thể hiện tính tập thể, đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt với tranh chấp lao động cá nhân. Tính tập thể trong một vụ tranh chấp lao động được thể hiện chủ yếu ở khía cạnh chủ thể, nội dung và mục đích của tranh chấp. 

Về chủ thể: Tranh chấp lao động tập thể bao giờ cũng phát sinh giữa một bên là một hoặc nhiều người sử dụng lao động với bên kia là tập thể người lao động. Tập thể theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là "tập hợp những người có quan hệ gắn bó, cùng sinh hoạt hoặc cùng làm việc chung với nhau". Tranh chấp lao động tập thể có thể xảy ra ở phạm vi doanh nghiệp, hoặc rộng hơn như ngành, khu vực. Tổ chức đại diện lao động tham gia vào tranh chấp lao động với tư cách là đại diện của tập thể lao động. Vì thế, một bên của tranh chấp lao động có thể là tập thể lao động hoặc tổ chức đại diện tập thể lao động. 

Về nội dung và mục đích tranh chấp: Tranh chấp lao động tập thể xuất phát các mâu thuẫn về quyền và lợi ích chung của tập thể. Cụ thể, các quyền, lợi ích này không chỉ xoay quanh quan hệ lao động giữa riêng người lao động và người sử dụng lao động mà là cả một tập thể người lao động hoặc một tập thể người sử dụng lao động. Tranh chấp này liên quan đến nhiều cá nhân, hoặc nhiều tổ chức, dẫn đến việc nếu không được giải quyết thì hậu quả vô cùng lớn. Các vấn đề tranh chấp lao động tập thể thường mang tính phổ quát, diện rộng, phạm vi ảnh hưởng của tranh chấp theo vùng, ngành có thể mang diện rộng, vì vậy các tranh chấp này có ảnh hưởng rất lớn và được sự quan tâm của nhiều người lao động.

Ví dụ: Một tranh chấp cá nhân của anh A và công ty B có thể ảnh hưởng đến 01 người lao động với người sử dụng lao động, và cũng chỉ 02 bên chịu hậu quả pháp lý sau khi tranh chấp được giải quyết. Nhưng tranh chấp giữa tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở nơi anh A làm việc và công ty B ảnh hưởng trực tiếp đến hơn 1000 người lao động đang là thành viên của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở này, hậu quả pháp lý xảy ra có thể làm ảnh hưởng tới quyền của toàn bộ người lao động này.

Tranh chấp lao động tập thể về quyền là gì?

Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động phát sinh từ việc giải thích và thực hiện khác nhau các quy định của pháp luật về lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác. Về bản chất, đây là loại tranh chấp về việc đòi khôi phục sự thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Việc giải quyết loại hình tranh chấp này chủ yếu dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật bởi tranh chấp thường trong tình trạng gay gắt nên phải dảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời để khôi phục quyền lợi của bên bị vi phạm, hạn chế xung đột, phát sinh những hậu quả kinh tế - xã hội. 

Quy định về các trường hợp tranh chấp lao động tập thể về quyền

Căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 179 Bộ luật lao động 2019, tranh chấp lao động về quyền xảy ra trong 03 trường hợp như sau:

Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và thỏa thuận hợp pháp khác

Thỏa ước lao động tập thể được xây dựng dựa trên thương lượng tập thể và ý kiến biểu quyết của người có quyền biểu quyết (người lao động hoặc thành viên tổ chức đại diện tại cơ sở). Các nội dung của thỏa ước lao động tập thể chủ yếu quy định về quyền của người lao động và người sử dụng lao động, các nội dung này có thể dài và có thể khiến các bên có cách hiểu khác nhau, cũng như cách thực hiện khác nhau, do đó dẫn đến tranh chấp.

Nội quy lao động là quy định do người sử dụng lao động xây dựng và ban hành dựa trên ý kiến tham khảo của tổ chức đại diện người lao động. Tuy nhiên, cũng tương tự như thỏa ước lao động, các nội dung trong nội quy lao động có thể dài và dễ gây nhầm lẫn cho người lao động, mà tổ chức đại diện người lao động hiểu theo nghĩa khác, dẫn đến bất đồng về các vấn đề về nội quy lao động sau này là không thể tránh khỏi, do đó dẫn đến tranh chấp.

Ví dụ: Trong nội quy lao động có quy định là “Người lao động được hưởng tiền lương vào cuối tháng làm việc.” nhưng lại không quy định cuối tháng làm việc tính theo đơn vị tháng hay là 30 ngày kể từ ngày bắt đầu làm việc, dẫn đến sự bất đồng quan điểm giữa người sử dụng lao động và tổ chức đại diện người lao động. Tương tự với các trường hợp thỏa thuận hợp pháp khác.

Có sự khác nhau trong việc hiểu và thực hiện quy định của pháp luật về lao động

Các tổ chức đại diện người lao động cũng như người sử dụng lao động được Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật liên quan đến lao động. Tuy nhiên, các quy định về pháp luật về lao động có thể chưa được giải thích một cách cụ thể, dễ gây nhầm lẫn dẫn đến sự bất đồng quan điểm của tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động. Các vấn đề này có thể được thảo luận trong đối thoại tại nơi làm việc hoặc các hoạt động khác nhưng đi tới kết quả chung, dẫn tới tranh chấp lao động giữa các bên.

Ví dụ: Khoản 1 Điều 109 Bộ luật lao động 2019 có quy định về: “Trường hợp người lao động làm việc theo ca liên tục từ 06 giờ trở lên thì thời gian nghỉ giữa giờ được tính vào giờ làm việc.” nhưng không có quy định giải thích thế nào là làm liên tục, dẫn đến người sử dụng lao động cho rằng người lao động không được rời vị trí làm việc, phải thực hiện công việc một cách liên tục không ngừng nghỉ, trong khi đó tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở cho rằng làm việc liên tục ở đây là một quá trình và người lao động trong suốt 06 giờ có thể thực hiện công việc theo đúng quy trình và có thể rời vị trí làm việc trong một khoảng thời gian ngắn để đi vệ sinh, uống nước lấy sức. Cuối cùng phải xử lý theo quy trình giải quyết tranh chấp lao động.

Khi người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử đối với người lao động, thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động vì lý do thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động; can thiệp, thao túng tổ chức đại diện người lao động; vi phạm nghĩa vụ về thương lượng thiện chí

Đây là trường hợp ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của tổ chức đại diện người lao động. Người lao động là lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động trên thực tế vẫn là người lao động của người sử dụng lao động. Hành vi phân biệt đối xử là hành vi tuyệt đối bị nghiêm cấm trong lĩnh vực lao động (theo Điều 8 Bộ luật lao động 2019), hơn nữa lại là đối với thành viên ban lãnh đạo tổ chức đại diện người lao động với mục đích ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức đại diện người lao động, nên càng nghiêm trọng hơn. Tranh chấp lao động này thường xuất phát từ việc tổ chức đại diện người lao động cho rằng doanh nghiệp phân biệt đối xử đối với thành viên ban lãnh đạo của mình và người sử dụng lao động không thừa nhận hành vi này.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền

Theo Khoản 1 Điều 191 Bộ luật lao động 2019, giống với giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, có 03 chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền, bao gồm:

Hòa giải viên lao động

Hòa giải viên lao động là cá nhân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ hòa giải tranh chấp lao động, tranh chấp liên quan đến hợp đồng đào tạo nghề và hỗ trợ phát triển quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp lao động giữa tổ chức đại diện người lao động và người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Khác với trường hợp giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, khi muốn giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền thì các bên phải tiến hành giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên lao động đầu tiên trước khi yêu cầu thực hiện giải quyết bằng phương thức khác, và không có trường hợp ngoại lệ. Nguyên nhân do các tranh chấp lao động tập thể về quyền là các tranh chấp liên quan đến các vấn đề xâm phạm về quyền của các chủ thể như hiểu và thực hiện các quy định, phân biệt đối xử, thao túng tổ chức đại diện người lao động, thiếu thiện chí trong thương lượng,… Các tranh chấp này hoàn toàn có khả năng giải quyết thông qua hoạt động hòa giải, cũng như đảm bảo quyền tự quyết tối đa của các bên, do đối với các tranh chấp lao động tập thể, các bên thường có xu hướng bỏ qua hòa giải vì cho rằng hòa giải không thể giải quyết các vấn đề tranh chấp, nhưng trên thực tế, các tranh chấp về hiểu và thực hiện pháp luật vẫn có thể giải quyết nếu các bên tìm được tiếng nói chung một cách dễ dàng hơn so với giải quyết qua Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân.

Hòa giải viên được Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội cử đi thực hiện nhiệm vụ hòa giải cho các bên tranh chấp. Một vụ tranh chấp có thể có 01 hoặc nhiều hòa giải viên cùng được cử đi giải quyết tùy theo mức độ phức tạp của tranh chấp.

Hội đồng trọng tài lao động

Hội đồng trọng tài lao động được thành lập bởi chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, và các thành viên của Hội đồng trọng tài lao động (các trọng tài viên) cũng được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm. Hội đồng trọng tài lao động có các trách nhiệm tương tự với hòa giải viên lao động như: Giải quyết tranh chấp lao động, tranh chấp liên quan đến hợp đồng đào tạo nghề, hỗ trợ phát triển quan hệ lao động.

Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền, các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp lao động thông qua Hội đồng trọng tài lao động trên cơ sở đồng thuận nhưng chỉ được thực hiện sau khi hòa giải không thành, và không được thực hiện cùng lúc giải quyết tranh chấp lao động thông qua Tòa án nhân dân.

Sau khi thư ký Hội đồng trọng tài lao động nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp, Chủ tịch Hội đồng trọng tài thành lập Ban trọng tài lao động bao gồm các trọng tài viên được các bên tranh chấp lựa chọn để giải quyết tranh chấp lao động. Ban trọng tài lao động này sau đó chính thức thực hiện các hoạt động giải quyết tranh chấp lao động qua các hoạt động tìm hiểu hồ sơ, tổ chức cuộc họp, ra quyết định giải quyết tranh chấp.

Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân ở đây là Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực dân sự. Đây là Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc, vụ án lĩnh vực dân sự mở rộng, trong đó có lao động. Trách nhiệm của Tòa án nhân dân lĩnh vực dân sự là giải quyết các vụ việc, tranh chấp, không nhất thiết phải là tranh chấp về lao động. Ngoài ra, việc tiếp nhận đơn yêu cầu, quy trình giải quyết tranh chấp của Tòa án nhân dân rất khác biệt so với hòa giải viên lao động và Hội đồng trọng tài lao động, và được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự sự 2015.

Việc giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền có thể được thực hiện sau khi hòa giải không thành, hoặc sau khi Ban trọng tài lao động đã có quyết định giải quyết tranh chấp nhưng một trọng hai bên không thi hành quyết định. Về cơ bản, Tòa án là cơ quan có thời hiệu yêu cầu giải quyết đối với tranh chấp lao động tập thể lâu nhất nhất, cũng như thời gian tiến hành giải quyết lâu nhất cũng vì vậy.

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư