2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Tạm thời đóng cửa nơi làm việc là một trong những quyền của người sử dụng lao động trong quá trình đình công. Pháp luật lao động hiện hành có những quy định nào liên quan đến hoạt động này? Hãy cùng Luật Hoàng Anh tìm hiểu qua nội dung bài viết dưới đây.
- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 (Bộ Luật lao động 2019);
- Nghị định số 12/2022/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 01 năm 2022 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Dưới góc độ kinh tế, đình công là biện pháp đấu tranh kinh tế, được thực hiện bởi nhiều người lao động nhằm gây sức ép về mặt kinh tế đến người sử dụng lao động và đem lại lợi ích kinh tế cho người lao động. Tức là, khi người lao động ngừng việc, người sử dụng lao động phải chịu thiệt hại về kinh tế khi không có nguồn nhân lực sản xuất, không thể sản xuất, kinh doanh đúng theo tiến trình đặt ra, có thể bị chậm giao hàng, chậm thực hiện hợp đồng lao động do đình công. Ngược lại, người lao động khi gây sức ép như vậy lên người sử dụng lao động với mục đích đạt được các lợi ích về mặt kinh tế, như tăng tiền lương, giảm giờ làm (nhưng vẫn được hưởng mức lương cơ bản),…
Ví dụ: Trường hợp của hãng hàng không Airfrance, nhân viên đình công đòi tăng 6% lương dẫn đến thiệt hại 500 triệu USD trong đó thiệt hại 25,5 triệu USD/ngày do 80% chuyến bay không thể cất cánh.
Dưới góc độ xã hội, đình công là hoạt động ngừng việc của người lao động, có thể gây bất ổn xã hội nhưng cũng có thể góp phần xây dựng, bảo vệ những giá trị tiến bộ. Bởi vì đình công là hoạt động tập thể có quy mô lớn, nên các ảnh hưởng của hoạt động này có thể lan ra ngoài phạm vi doanh nghiệp, người sử dụng lao động, đến phạm vi vùng, hoặc có thể ảnh hưởng đến cả quốc gia. Hoạt động đình công cũng xuất phát từ sự bức xúc do không thể giải quyết tranh chấp lao động của người lao động, nên khi thực hiện hoạt động này dễ xảy ra bạo loạn, mất trật tự an ninh. Ví dụ: Đình công ở Hi Lạp do chính sách “thắt lưng buộc bụng” của nước này để có được sự viện trợ của các nước EU, có sự tham gia của hơn 70.000 người, trong số đó có những người lao động tham gia biểu tình, tiến hành đập phá, bạo loạn, chống đối cảnh sát thi hành nhiệm vụ, gây mất trật tự an ninh nghiêm trọng. Ngược lại, có những trường hợp đình công gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội của đất nước nói riêng và của thế giới nói chung. Ví dụ: Cuộc đình công tại Chicago, gồm 40.000 người, sau đó mở rộng ra khắp các bang ở Mỹ, dẫn đến Đại hội liên đoàn lao động Mỹ phải ra quyết định: “...Từ ngày 01/05/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Từ đây, rất nhiều nước quy định thời giờ làm việc tối đa của người lao động là 08 giờ, đồng thời ngày 01/05 trở thành ngày Quốc tế lao động.
Dưới góc độ pháp lý, đình công là quyền cơ bản của người lao động, do đó, pháp luật nước nào cũng nên có quy định về hoạt động đình công của người lao động.
Đối với pháp luật Việt Nam, căn cứ theo quy định tại Điều 198 Bộ Luật lao động 2019:
Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo.
Dựa vào quy định này, có thể phân tích khái niệm đình công như sau:
Thứ nhất, đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện, có tổ chức được thực hiện bởi người lao động
Hoạt động đình công do người lao động thực hiện và chỉ có người lao động có thể thực hiện. Một người lao động cũng không thể thực hiện đình công do không gây được áp lực về kinh tế lên người sử dụng lao động. Do vậy, phải có một số lượng lớn người lao động tham gia ngừng việc, thì mới đủ khả năng khiến người sử dụng lao động cân nhắc yêu cầu của người lao động, và đáp ứng điều kiện đầu tiên để trở thành “đình công”. Những người lao động này cũng không ngừng việc hẳn, không đơn phương chấm dứt hợp đồng vì đình công với mục đích đảm bảo yêu cầu của người lao động, nếu đã nghỉ việc, thôi việc đồng loạt thì không còn đáp ứng mục đích của đình công nữa.
Đình công là sự ngừng việc của người lao động dù số lượng là bao nhiêu cũng phải được diễn ra một cách tự nguyện và có tổ chức. Nếu người lao động bị ép thực hiện đình công thì các yêu cầu đối với người sử dụng lao động không phải là yêu cầu, mong muốn của người lao động, dẫn đến hoạt động ngừng việc không còn mang ý nghĩa bảo đảm, nâng cao quyền lợi của người lao động nữa, thì không thể coi là đình công. Tương tự, nếu hoạt động ngừng việc của một nhóm lao động được thực hiện tự phát, không có tổ chức lãnh đạo, dẫn đến không có sự thống nhất trong ngừng việc và các hoạt động khác trong quá trình ngừng việc, có thể xảy ra các hành vi quá khích như đập phá, bạo động,… gây mất trật tự, an ninh xã hội, như vậy không thể coi là đình công hợp pháp.
Thứ hai, đình công được tổ chức và lãnh đạo bởi tổ chức đại diện người lao động có thẩm quyền thương lượng tập thể và là một bên tranh chấp lao động tập thể
Do đình công của người lao động phải có tổ chức, cần có một chủ thể có thể lãnh đạo và tổ chức một cách bài bản, hợp pháp cho hoạt động ngừng việc của người lao động. Chủ thể phù hợp nhất là tổ chức đại diện người lao động vì chủ thể này có sự liên kết chặt chẽ đối với người lao động, đại diện cho người lao động thực hiện thể hiện một số quyền của người lao động với người sử dụng lao động (như đóng góp ý kiến tham khảo để người sử dụng lao động xây dựng nội quy lao động) và cũng là chủ thể có quyền tham gia vào các cuộc họp kỷ luật lao động, tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho người lao động như tuyên truyền phòng, chống quấy rối tình dục,… Đồng thời cũng là chủ thể có quyền tham gia và yêu cầu thương lượng tập thể.
Tuy nhiên hiện nay, có nhiều tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở được thành lập và hoạt động. Tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng là tổ chức đạt đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên do Chính phủ quy định, nếu tại cơ sở có nhiều tổ chức đại diện người lao động có đủ tiêu chuẩn về số lượng thành viên thì tổ chức có nhiều thành viên hơn có quyền yêu cầu thương lượng tập thể. Ngoài ra nếu các tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở không có đủ số thành viên thì có thể kết hợp với nhau để yêu cầu tham gia thương lượng tập thể. Các chủ thể này sau đó trở thành bên tranh chấp trong tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, hoặc tranh chấp lao động tập thể về quyền thì có quyền và trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức đình công khi không thể giải quyết tranh chấp lao động thông qua hòa giải viên, hội đồng trọng tài.
Thứ ba, đình công có mục đích là đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Mục đích của đình công không phải để người sử dụng lao động chịu thiệt hại về vật chất hay trả thù người sử dụng lao động. Mục đích của đình công là gây áp lực cho người sử dụng lao động, khiến người sử dụng lao động phải có các động thái phối hợp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động giải quyết tranh chấp lao động, hoặc phải có phương án mà các bên tranh chấp cùng chấp nhận được để kết thúc tranh chấp này.
Với mục đích bảo vệ quyền và lợi ịc của người sử dụng lao động, khoản 1 và Khoản 3 Điều 203 Bộ luật lao động 2019, người sử dụng lao động có 04 quyền trước và trong quá trình đình công như sau:
- Tiếp tục tham gia giải quyết tranh chấp lao động tập thể
- Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần yêu cầu và thông báo bằng văn bản cho tổ chức đại diện người lao động đang tổ chức và lãnh đạo đình công
- Đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong thời gian đình công do không đủ điều kiện để duy trì hoạt động bình thường hoặc để bảo vệ tài sản
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố cuộc đình công là bất hợp pháp.
Theo đó, người sử dụng lao động hoàn toàn có quyền đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong thời giand đình công. Phần tiếp theo của bài viết, Luật Hoàng Anh sẽ đi sâu làm rõ nội dung này.
Theo Khoản 3 Điều 203 Bộ luật lao động 2019, người sử dụng lao động được quyền tạm đóng cửa nơi làm việc nếu:
- Không đủ điều kiện duy trì hoạt động bình thường: Hoạt động đình công khiến người sử dụng lao động đình trệ sản xuất, kinh doanh. Nếu tiếp tục mở cửa nơi làm việc thì người lao động vẫn ngừng việc, không có nhân lực thực hiện công việc. Đồng thời, việc tiếp tục mở cửa nơi làm việc trong thời gian đình công khiến người sử dụng lao động mất thêm các chi phí đảm bảo an toàn, vệ sinh tại nơi làm việc cũng như các chi phí khác liên quan khác. Các thiệt hại về kinh tế mà đình công mang lại cùng với việc phải duy trì hoạt động của mình có thể khiến người sử dụng lao động không còn đủ điều kiện để duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời gian này, do đó phải đóng cửa tạm thời.
- Với mục đích bảo vệ tài sản: Nếu không vì không đủ điều kiện sản xuất thì người sử dụng lao động có thể tạm thời đóng cửa nơi làm việc để bảo vệ tài sản tại nơi làm việc, phòng tránh trường hợp người lao động đình công hoặc những người không liên quan đến tranh chấp lao động có những hành vi hủy hoại tài sản của người sử dụng lao động.
Căn cứ theo quy định tại Điều 206 Bộ luật lao động 2019, có 02 trường hợp người sử dụng lao động không được tạm thời đóng cửa nơi làm việc, bao gồm:
Người sử dụng lao động được tổ chức đại diện người lao động thông báo bằng bản về việc tổ chức đình công trước ít nhất 05 ngày kể từ ngày tổ chức đình công. Trong thông báo này có bao gồm thời gian, địa điểm tổ chức đình công. Theo đó, người sử dụng lao động không được phép đóng cửa tạm thời nơi làm việc trước 12 giờ so với thời điểm bắt đầu đình công.
Về bản chất, đình công là hoạt động ngừng việc tự nguyện của người lao động; thể hiện lập trường và yêu cầu từ người lao động; nên nếu đóng cửa nơi làm việc ngay trước khi tổ chức đình công thì người lao động trở thành được nghỉ vì nơi làm việc tạm đóng cửa; chứ không phải là ngừng việc do tranh chấp lao động.
Sau khi người lao động ngừng đình công; nghĩa là khi đã có sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và tổ chức đại diện người lao động; hoặc người sử dụng lao động đã chấp nhận một phần; hoặc toàn bộ yêu cầu của người sử dụng lao động. Khi ngừng đình công thì người lao động quay trở lại làm việc như bình thường.
Nếu tạm đóng cửa nơi làm việc ngay sau khi người lao động ngừng đình công, sẽ gây cản trở người lao động quay trở lại làm việc, từ đó ảnh hưởng đến tiền lương, thưởng, thu nhập của người lao động sẽ không được đảm bảo.
Theo Điều 205 Bộ luật lao động 2019, có 03 chủ thể mà người sử dụng lao động phải thông báo khi tạm đóng cửa nơi làm việc:
Đây là bên còn lại trong tranh chấp lao động tập thể, cũng như là chủ thể tổ chức, lãnh đạo đình công. Cũng giống như việc tổ chức đại diện người lao động phải thông báo cho người sử dụng lao động trước ít nhất 05 ngày kể từ ngày tổ chức đình công, người sử dụng lao động cũng phải thông báo cho tổ chức đại diện người lao động trước ít nhất 05 ngày trước khi tạm đóng cửa nơi làm việc, do có thể trong phạm vi đình công mà tổ chức đại diện người lao động tổ chức có các hoạt động như mít tinh, gặp mặt tại nơi làm việc,... Việc thông báo tạm đóng cửa nơi làm việc giúp tổ chức đại diện người lao động biết được động thái, tình hình của người sử dụng lao động đồng thời có sự thay đổi phù hợp trong tổ chức đình công do tạm đóng cửa nơi làm việc.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp huyện là 02 cơ quan đảm nhận trách nhiệm quản lý trên địa bàn cấp tỉnh, cấp huyện. Hai cơ quan này có các cơ quan chuyên môn quản lý từng khía cạnh của người sử dụng lao động và người lao động. Ví dụ như Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm giám sát số lượng người lao động của người sử dụng lao động, điều phối hoạt động hòa giải, giải quyết tranh chấp thông qua Hội đồng trọng tài lao động, Sở Tài chính, Phòng Tài chính có trách nhiệm giám sát các vấn đề tài chính như vi phạm của người sử dụng lao động trong tài chính, kế toán,... Đồng thời, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cơ quan chuyên môn về lao động của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng được thông báo về việc tổ chức đình công, vì vậy 02 chủ thể này cũng có quyền quản lý hoạt động đình công trong cấp huyện, tỉnh của mình. Do đó khi người sử dụng lao động tạm đóng cửa nơi làm việc do đình công thì phải tiến hành thông báo cho 02 chủ thể này.
Khoản 3 Điều 34 Nghị định 12/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định như sau:
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
[...]
c) Đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong trường hợp theo quy định tại Điều 206 của Bộ luật Lao động;
Theo đó, hành vi đóng cửa tạm thời nơi làm việc trong trường hợp bị cấm theo quy định tại ĐIều 206 Bộ Luật lao động 2019 bị xử phạt từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài ra còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đó là buộc người sử dụng lao động trả lương cho người lao động trong những ngày đóng cửa tạm thời nơi làm việc.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh