Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thông qua Hội đồng trọng tài lao động như thế nào?

Thứ tư, 28/06/2023, 14:49:32 (GMT+7)

Bài viết này giải thích về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thông qua Hội đồng trọng tài lao động

Tranh chấp lao động có thể xuất phát từ việc quyền lợi của một cá nhân bị vi phạm (tranh chấp lao động cá nhân) hoặc quyền và lợi ích của cả tập thể lao động bị xâm phạm (tranh chấp lao động tập thể). Trong tranh chấp lao động tập thể lại được chia ra thành tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Vậy tranh chấp lao động tập thể về lợi ích nếu giải quyết theo thủ tục trọng tài thì trình tự, thủ tục được quy định như thế nào? Bài viết sau đây của Luật Hoàng Anh sẽ trình bày về cụ thể về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý

- Bộ Luật lao động số 45/2019/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2019 

- Nghị định số 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 12 năm 2020 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.

Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là gì?

Hiện nay, Bộ Luật lao động 2019 không đưa ra khái niệm riêng về tranh chấp lao động tập thể về lợi ích mà chỉ quy định tranh chấp lao động tập thể về lợi ích bao gồm: 

- Tranh chấp lao động phát sinh trong quá trình thương lượng tập thể;

- Khi một bên từ chối thương lượng hoặc không tiến hành thương lượng trong thời hạn theo quy định của pháp luật.

Theo đó, có thể đưa ra khái niệm tranh chấp lao động tập thể về lợi ích như sau: Tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là tranh chấp giữa một hay nhiều tổ chức đại diện người lao động với người sử dụng lao động hoặc một hay nhiều tổ chức của người sử dụng lao động phát sinh trong quá trrinhf thương lượng tập thể.

Đặc điểm của tranh chấp lao động tập thể về lợi ích

Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp lao động tập thể bao gồm người sử dụng lao động hoặc tổ chức người đại diện người sử dụng lao động và tập thể lao động (hoặc tổ chức đại diện tập thể lao động). 

Thứ hai, mục đích của tranh chấp lao động về tập thể là nhằm yêu cầu xác lập các điều kiện lao động mới (thường là có lợi hơn cho người lao động) so với quy định của pháp luật hoặc các văn bản có giá trị pháp lý khác trong nội bộ doanh nghiệp, đơn vị. Khác với tranh chấp lao đọng tập thể về quyền thường xảy ra do có sự vi phạm hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hay pháp luật lao động, tranh chấp lao đồng tập thể về lợi ích xảy ra khi tập thể lao động muốn đưa ra các yêu cầu trong thương lượng tập thể nhằm xác lập các điều kiện lao động mới. 

Thứ ba, những thỏa thuận đạt được này thường được xác lập thông qua thương lượng tập thể và thường được ghi nhận bằng văn bản. Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ lao động, mục đích cuối cùng của người lao động là có được với làm với thu nhập cao, mục đích của người sử dụng lao động là ổn định sản xuất từ đó nâng cao lợi nhuận, hầu hết những yêu sách của người lao động thường được xác lập thông qua thương lượng tập thể. Những thỏa thuận này sau đó thường được ghi nhận trong thỏa ước lao động tập thể, làm căn cứ để áp dụng và giải quyết tranh chấp lao động nếu có sau này.

Thứ tư, tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thường phát sinh khi không có sự vi phạm các quy định của pháp luật lao động, vi phạm thỏa ước lao động tập thể/thỏa thuận tập thể về lao động đã ký kết, Vì lợi ích là những vấn đề mà tập thể lao động cho rầng mình được hưởng nhưng khi đề nghị thì người sử dụng lao động không đồng ý khi thương lượng tập thể, từ đó phát sinh tranh chấp.

Giải quyết tranh chấp lao động theo thủ tục trọng tài là gì?

Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp trong hòa bình với sự tham gia của bên thứ ba khách quan, công bằng trong việc đưa ra quyết định về vụ việc đối với cả hai bên tranh chấp. Phán quyết trọng tài có thể mang tính khuyến nghị hoặc bắt buộc các bên có nghĩa vụ thực hiện tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, việc yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp là hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp.

Khác với thương lượng và hòa giải, trọng tài lao động được xếp vào hệ thống tài phán ở Việt Nam. Về tổ chức, trọng tài lao động được quy định với mô hình tổ chức hội đồng trọng tài với chủ tịch, thư ký và linh hoạt với các thành viên, là số lẻ và quyết định theo đa số. Hiện nay, theo Bộ Luật Lao động 2019, Ban trọng tài do Hội đồng trọng tài thành lập có thẩm quyền ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp, đồng thời thẩm quyết giải quyết tranh chấp lao động của Hội đồng trọng tài bao gồm cả tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Đây là điểm tiến bộ trong quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp. Các phần tiếp theo của bài viết Luật Hoàng Anh sẽ phân tích rõ hơn các quy định liên quan đến Hội đồng trọng tài.

Cơ cấu của Hội đồng trọng tài lao động

Hội đồng trọng tài lao động được thành lập theo quyết định của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh bao gồm chủ tịch hội đồng, thư ký hội đồng và các trọng tài viên lao động. Cụ thể:

- Chủ tịch Hội đồng trọng tài là lãnh đạo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, cũng là một trọng tài viên và làm việc theo chế độ kiêm nhiệm

- Thư ký Hội đồng trọng tài là công chức của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, cũng là một trong các trọng tài viên và làm việc theo chế độ chuyên trách.

- Các trọng tài viên khác làm việc theo chế độ kiêm nhiệm

03 thành phần này không thể thiếu trong Hội đồng trọng tài lao động. Chủ tịch Hội đồng trọng tài có trách nhiệm chỉ đạo chung đối với Hội đồng, cũng chịu trách nhiệm lớn về các hoạt động của Hội đồng trọng tài lao động. Thư ký có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ do Chủ tịch Hội đồng trọng tài chỉ định, đồng thời giúp Chủ tịch Hội đồng trọng tài và các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả nhất, và cũng là chủ thể duy nhất trong Hội đồng trọng tài lao động làm việc ở chế độ chuyên trách, tức chỉ thực hiện duy nhất công việc là thư ký của Hội đồng trọng tài, trong khi các chủ thể khác làm việc ở chế độ kiêm nhiệm, tức thực hiện cùng lúc 02 hoặc nhiều công việc hoặc chức danh. Ngoài ra, dù có chức danh như thế nào thì các thành viên của Hội đồng trọng tài đều là trọng tài viên, tức là tất cả các thành viên đều có thể tham gia vào ban trọng tài về lao động khi cần mà không phân chia chức vụ như Chủ tịch Hội đồng trọng tài, thư ký hay thành viên khác. Do vậy, dù nhiệm vụ của riêng từng chức vụ trong Hội đồng trọng tài có thể khác nhau nhưng vẫn phải đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ chung của Hội đồng trọng tài liên quan đến giải quyết tranh chấp về lao động.

Bên cạnh đó, cũng do các chủ thể này được bổ nhiệm bởi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm nên các trọng tài viên trong Hội đồng trọng tài hưởng các chế độ tương ứng với công việc, hoạt động của mình từ Nhà nước. Ví dụ: Trọng tài viên mỗi ngày nghiên cứu hồ sơ vụ việc, thu thập bằng chứng và tiến hành giải quyết tranh chấp lao động được hưởng tiền bồi dưỡng mức 5% tiền lương tối thiểu tháng bình quân tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng (Theo Điểm a, Khoản 1 Điều 103 Nghị định 145/2020/NĐ-CP của Chính phủ).

Trách nhiệm của Hội đồng trọng tài lao động

Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 101 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP, Hội đồng trọng tài lao động có trách nhiệm như sau:

+ Giải quyết tranh chấp lao động theo quy định tại các Điều 189, 193 và 197 của Bộ luật Lao động năm 2019

+ Giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích ở nơi sử dụng lao động không được đình công theo quy định.

+ Giải quyết tranh chấp lao động khác theo quy định của pháp luật;

+ Hỗ trợ phát triển quan hệ lao động trên địa bàn tỉnh theo quy chế hoạt động của Hội đồng trọng tài lao động;

+ Định kỳ hằng năm báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và thông báo cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động cấp tỉnh và tổ chức đại diện người sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh kết quả hoạt động của Hội đồng trọng tài lao động.

Như vậy, Hội đồng trọng tài về lao động là một tổ chức có nhiệm kỳ, quy chế riêng, các thành viên trong Hội đồng được bổ nhiệm để thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của Hội đồng.

Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích thông qua Hội đồng trọng tài lao động như thế nào?

Bước 1: Tiếp nhận đơn của các bên yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động

Theo Khoản 1 Điều 193 Bộ luật lao động 2019, đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, các bên chỉ có thể lựa chọn giải quyết tranh chấp thông qua Hội đồng trọng tài lao động trong 03 trường hợp sau:

- Hoạt động giải quyết tranh chấp lao động thông qua Hòa giải viên lao động không thành (Các bên tranh chấp không chấp nhận phương án giải quyết tranh chấp của Hòa giải viên)

- Các bên không tiến hành giải quyết tranh chấp lao động thông qua Hòa giải viên lao động trong thời hạn quy định (05 ngày kể từ khi hòa giải viên nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp từ Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội)

- Các bên tranh chấp chấp nhận phương án của Hòa giải viên lao động, hòa giải thành và được ghi nhận trong biên bản, nhưng một trong các bên tranh chấp không thực hiện thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành.

Nếu không thuộc 01 trong 03 trường hợp trên, Hội đồng trọng tài lao động không tiếp nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích.

Thư ký Hội đồng trực tiếp tiếp nhận, lưu trữ, xác nhận đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích hợp lệ rồi trình lên Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động thực hiện thành lập Ban trọng tài lao động.

Bước 2: Thành lập Ban trọng tài lao động

Ban trọng tài lao động được thành lập bởi Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động trong vòng 07 ngày kể từ ngày Hội đồng trọng tài lao động nhận được đơn hợp lệ yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Ban trọng tài lao động là nhóm các trọng tài viên trực tiếp thực hiện giải quyết vụ tranh chấp lao động cụ thể, do vậy, khi thành lập Ban trọng tài lao động cần có sự tham gia của Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động, các trọng tài viên khác của Hội đồng trọng tài lao động, và các bên tham gia tranh chấp. Việc thành lập Ban trọng tài lao động được tiến hành như sau:

a. Lựa chọn trọng tài viên

Các thành viên của Hội đồng trọng tài lao động được sắp xếp vào một danh sách trọng tài viên (bao gồm cả Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động, Thư ký Hội đồng trọng tài lao động) cho các bên tranh chấp lựa chọn trọng tài viên vào Ban trọng tài lao động. Mỗi bên tranh chấp có lợi ích lựa chọn 01 trọng tài viên, nếu không chọn được thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động quyết định thay. Như vậy xảy ra 02 trường hợp:

- Các bên mỗi bên chọn ra 01 trọng tài viên, tức Ban trọng tài lao động có 02 thành viên được chọn từ 02 bên tranh chấp. Nhưng Ban trọng tài lao động hoạt động theo nguyên tắc tập thể, quyết định dựa trên ý kiến đa số, do vậy cần 01 trọng tài viên khác giữ vị trí Trưởng ban trọng tài lao động. Trọng tài viên này do 02 trọng tài viên trong Ban trọng tài lao động chọn. Nếu 02 trọng tài viên này không thống nhất chọn được Trưởng ban trọng tài lao động thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động quyết định trọng tài viên giữ vị trí này (ngoài 02 trọng tài viên đã được chọn vào Ban trọng tài)

- Các bên chọn trùng 01 trọng tài viên, thì trọng tài viên này là thành viên duy nhất của Ban trọng tài lao động.

b. Quyết định thành lập Ban trọng tài lao động

Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động quyết định thành lập Ban trọng tài lao động sau khi chọn được thành viên cho Ban trọng tài.

Bước 3: Ban trọng tài lao động thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp

Sau khi Ban trọng tài lao động được thành lập, các thành viên của Ban trọng tài lao động tiến hành thực hiện nhiệm vụ Hội đồng trọng tài lao động trong 30 ngày:

a. Tìm hiểu hồ sơ vụ việc, thu thập bằng chứng theo thẩm quyền

Các trọng tài viên của Ban trọng tài lao động thực hiện nghiên cứu hồ sơ vụ việc, chứng cứ do các bên tranh chấp cung cấp, biên bản họp hòa giải của Hòa giải viên lao động. Ngoài ra có thể tham khảo thông tin, giám định từ bên thứ ba có tính chuyên môn, thu thập chứng cứ, tài liệu khác bằng nghiệp vụ.

b. Tiến hành tổ chức cuộc họp giải quyết tranh chấp lao động

Trong ít nhất 05 ngày trước khi tổ chức cuộc họp giải quyết tranh chấp, Ban trọng tài lao động gửi văn bản triệu tập các bên tranh chấp tham gia cuộc họp. Các bên tranh chấp phải có phản hồi về việc tham gia, nếu không tham gia do thời gian, địa điểm thì có thể đề nghị thay đổi thời gian, địa điểm họp.

Khi chính thức tiến hành họp, nếu có 01 bên không có mặt mà không có lý do chính đáng thì vẫn tiến hành họp. Tại đây, các bên thảo luận về nội dung tranh chấp, các vấn đề liên quan, vướng mắc, các chứng cứ, tài liệu mà các bên tranh chấp cung cấp.

c. Ban trọng tài lao động ban hành quyết định giải quyết tranh chấp lao động

Ban trọng tài lao động sau khi tổ chức cuộc họp, nắm rõ tình hình tranh chấp, thì thảo luận riêng, dựa trên ý kiến số đông, ban hành quyết định giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích theo nguyên tắc tập thể.

Bước 4: Chuyển sang đình công

Tổ chức lao động có thể tiến hành tổ chức đình công trong các trường hợp sau:

- Ban trọng tài lao động không được thành lập

- Hết thời hạn 30 ngày kể từ khi thành lập Ban trọng tài lao động, Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích

- Người sử dụng lao động là bên tranh chấp không thực hiện theo quyết định của Ban trọng tài lao động.

Trong các trường hợp trên đối với giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thì các bên tranh chấp có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án nhân dân thông qua hoạt động khởi kiện. Tuy nhiên, đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, đây là loại tranh chấp xuất phát từ thương lượng tập thể, không có dấu hiệu vi phạm pháp luật về dân sự (mở rộng) bao gồm lao động. Các lợi ích, quyền mà các bên thảo luận, đàm phán chưa được thỏa thuận và thực hiện nên trên thực tế các lợi ích trong thương lượng tập thể chưa thực sự tồn tại. Do đó, không thể giải quyết tranh chấp lao động về lợi ích thông qua Tòa án nhân dân.

Ngược lại, do đây là tranh chấp của tổ chức đại diện người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động, mà không thể giải quyết thông qua hoạt động tố tụng được, nên tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức đình công. Hoạt động đình công có sự tham gia của những người lao động là thành viên của tổ chức đại diện người lao động, thực hiện ngừng việc theo đúng quy định của pháp luật, nhằm gây áp lực khiến người sử dụng lao động hoặc tổ chức đại diện người sử dụng lao động thực hiện những yêu cầu của người lao động và tổ chức đại diện người lao động khi giải quyết tranh chấp. Người sử dụng lao động và tổ chức đại diện người lao động phải có trách nhiệm thảo luận và tự giải quyết tranh chấp với người lao động, tổ chức đại diện người lao động trong trường hợp này. Vì thế hoạt động đình công này đảm bảo người lao động, tổ chức người lao động không bị thiệt thòi khi tranh chấp liên quan đến thương lượng tập thể.

Luật Hoàng Anh

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư