2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội thì tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên môi trường cũng diễn ra phức tạp, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững. Có thể thấy được, nước là nguồn tài nguyên quý giá, nước rất cần thiết cho hoạt động sống của con người cũng như các sinh vật. Đồng thời là nguồn tài nguyên thiết yếu cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Tại Việt Nam, phần lớn các hệ thống sông biển đều có liên quan đến quốc tế, trải dài dọc biên giới từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Chính vì vậy, Chính phủ luôn quan tâm đến việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước xuyên biên giới và vấn đề hợp tác với các quốc gia có cùng chung nguồn nước.
Trong phạm vi bài viết này, Luật Hoàng Anh sẽ trình bày về giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước theo Điều 76 Luật Tài nguyên nước số 06/VBHN-VPQH ngày 04 tháng 1 năm 2017 (sau đây được gọi là Luật Tài nguyên nước năm 2017).
Nội dung này được quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 76 Luật Tài nguyên nước năm 2017.
Nước là nguồn tài nguyên vô giá và quan trọng nhất đối với sự sống của con người và các sinh vật khác. Trong bối cảnh nguồn nước ngày một khan hiếm thì tranh chấp về tài nguyên nước là tất yếu. Khi xảy ra tranh chấp, các bên phải có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp một cách hoà bình và có thể lựa chọn các biện pháp thích hợp bao gồm thương lượng trực tiếp, sử dụng trung gian hoà giải, sử dụng cơ chế trọng tài hoặc giải quyết tại toà án.
Theo đó, hòa giải tranh chấp về tài nguyên nước được thực hiện như sau:
- Nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải các tranh chấp về tài nguyên nước;
- Nhà nước khuyến khích giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau thông qua hòa giải tại cơ sở theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở;
- Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức hòa giải các tranh chấp về tài nguyên nước trên địa bàn khi có đề nghị của các bên tranh chấp.
Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân được tổ chức ở cấp tỉnh, cấp huyện, là cơ quan tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, ủy quyền của cơ quan nhà nước cấp trên.
Khoản 2 Điều 76 Luật Tài nguyên nước năm 2017 quy định như sau:
“2. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước thuộc trường hợp không phải xin cấp giấy phép; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên tranh chấp có quyền khiếu nại đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.”
Khoản 3 Điều này cũng quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm sau đây:
- Giải quyết tranh chấp phát sinh trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của mình; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp thì các bên tranh chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật;
- Giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện với nhau;
- Giải quyết tranh chấp đã có quyết định giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng các bên tranh chấp không đồng ý.
Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm sau đây:
- Giải quyết tranh chấp phát sinh trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của mình; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì có quyền khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật;
- Giải quyết tranh chấp khác về tài nguyên nước giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Pháp luật Việt Nam quy định, Yêu cầu về bồi thường thiệt hại liên quan đến giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước.
Ví dụ: Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường thuộc lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Do vậy, cơ sở pháp lý giải quyết các yêu cầu về bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trước hết được thực hiện theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh