2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Cùng với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội thì tình trạng ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên môi trường cũng diễn ra phức tạp, có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững. Có thể thấy được, nước là nguồn tài nguyên quý giá, nước rất cần thiết cho hoạt động sống của con người cũng như các sinh vật. Đồng thời là nguồn tài nguyên thiết yếu cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay, nguồn nước sạch đã giảm đáng kể, tình trạng sử dụng nước không hợp lý mà lý do chủ yếu lại đến từ hoạt động sinh hoạt và sản xuất của con người. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về ô nhiễm rác thải biển, đặc biệt là tình trạng ô nhiễm rác thải nhựa, một vài những khu vực rừng ngập mặn tại Việt Nam cũng tràn ngập túi rác thải nilon. Chính vì vậy, việc quản lý, khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguồn nước đã trở thành mục tiêu hàng đầu của Nhà nước. Muốn vậy, trước hết cần phải nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của nguồn nước đối với cuộc sống và phát triển kinh tế xã hội.
Trong phạm vi bài viết này, Luật Hoàng Anh sẽ trình bày các nội dung về khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất công nghiệp, khai thác, chế biến khoáng sản theo Điều 49 Luật Tài nguyên nước số 06/VBHN-VPQH ngày 04 tháng 1 năm 2017 (sau đây được gọi là Luật Tài nguyên nước năm 2017).
Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 Luật Tài nguyên nước năm 2017 quy định như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất công nghiệp phải tiết kiệm nước, không gây ô nhiễm nguồn nước.”
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về tình hình khai thác, sử dụng nước: theo thống kê thì khai thác, cấp nước cho CN được khai thác từ nguồn nước mặt, nước dưới đất và một phần từ hệ thống cấp nước tập trung, tổng lượng nước sử dụng của các ngành công nghiệp vào khoảng 8,84 tỷ m3/năm, chiếm khoảng 8,3% tổng lượng nhu cầu khai thác; trong đó chủ yếu là sử dụng nguồn nước mặt và tập trung phần lớn trên lưu vực sông Đồng Nai (chiếm 68,3% lượng nước cho công nghiệp của cả nước), lưu vực sông Hồng - Thái Bình (chiếm 15,5% tổng lượng nước cho công nghiệp của cả nước).
Có thể thấy, gần đây nhu cầu nước cho phát triển ngành công nghiệp tăng mạnh mẽ. Tuy lượng nước sử dụng cho ngành công nghiệp là không lớn so với các ngành khác, chỉ chiếm 8,3% tổng lượng nước được khai thác, sử dụng, nhưng công nghiệp lại là ngành làm phát sinh lượng nước thải lớn có khả năng gây ô nhiễm cao, phần lớn từ hoá chất và khó xử lý.
Vì vậy, việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sản xuất công nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sử dụng tiết kiệm, hợp lý và không làm ô nhiễm nguồn nước.
Nội dung này được quy định chi tiết tại khoản 2 Điều 48 Luật Tài nguyên nước năm 2017.
Theo đó, tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho khai thác, chế biến khoáng sản phải có biện pháp thu gom, xử lý nước đã qua sử dụng đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng nước thải trước khi xả vào nguồn nước.
Trong đó, khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ.
Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt động thăm dò khoáng sản, hoạt động khai thác khoáng sản. Trong đó, thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản. Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.
Xem thêm tại: Tổng hợp bài viết về Luật Tài nguyên nước
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh