2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Có thể nói, nước ta được đánh giá có nhiều lợi thế về tài nguyên khoáng sản. Các kết quả công tác điều tra, đánh giá cho thất nguồn tài nguyên khoáng sản khá đa dạng và phong phú với trên 5000 mỏ, điểm quặng của 60 loại khoáng sản khác nhau như than, sắt, đá vôi…; có một số loại khoáng sản có quy mô trữ lượng đáng kể, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lượng và lá nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản lại trở thành thách thức lớn khi nguồn khoáng sản đang ngày một cạn kiệt do con người chỉ khai thác mà không có phương pháp bảo vệ, cải tạo. Thậm chí còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, đất đai của quốc gia. Nhận thấy thực tế này, Chính phủ đã có những phương án lâu dài và đưa ra các quy định pháp luật vừa để hướng người dân khai thác sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản vừa bảo vệ môi trường.
Trong phạm vi bài viết này, Luật Hoàng Anh sẽ trình bày tổng quan về khoáng sản và phạm vi điều chỉnh của Luật Khoáng sản theo Điều 1 Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 ngày 17 tháng 11 năm 2010 (sau đây được gọi là Luật Khoáng sản năm 2010).
Theo Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thì tài nguyên khoáng sản là tài sản công thuộc sỡ hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Trung bình mỗi năm ngành công nghiệp khai khoáng nước ta cung cấp cho nền kinh tế khoảng 90 triệu tấn đá vôi xi măng, gần 100 triệu m3 cát xây dựng, trên 45 triệu tấn than…; giá trị sản lượng ngành khai khoáng chiếm khoảng 4-5% tổng GDP hàng năm, đóng góp trực tiếp cho ngân sách nhà nước tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường.
Như vậy, có thể thấy được tài nguyên khoáng sản đã trở thành một trong những nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời kỳ hiện nay. Theo đó, để giảm bớt những bất cập trong khai thác và bảo vệ tài nguyên khoáng sản quốc gia, các cơ quan quản lý Nhà nước đã đưa ra những phương án thống nhất và bảo đảm hài hòa lợi ích các bên gồm Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành Luật Khoáng sản năm 2010, thay thế Luật Khoáng sản năm 1996, bổ sung một số Điều của Luật Khoáng sản năm 2005.
Luật Khoáng sản năm 2010 đã kế thừa và thể hiện được các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với khoáng sản trong giai đoạn trước đó. Luật đã thể hiện rõ những quan điểm mới mang tính “đột phá” làm thay đổi căn bản công tác bảo vệ, quản lý, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia; giải quyết được các vấn đề gây nhiều bức xúc và tranh luận trong công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản từ trước đến nay; đồng thời bãi bỏ các quy định bất cập, bổ sung các quy định mới phù hợp hơn với thực tiễn. Việc chi tiết hóa các vấn đề có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn ngay trong các điều khoản của Luật, giúp giảm số lượng các văn bản hướng dẫn dưới luật.
Nội dung này được quy định chi tiết tại Điều 1 Luật Đo đạc và bản đồ năm 2010.
Theo đó, Luật này quy định việc điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; thăm dò, khai thác khoáng sản; quản lý nhà nước về khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cũng theo Luật Khoáng sản năm 2010 thì khoáng sản là dầu khí; khoáng sản là nước thiên nhiên không phải là nước khoáng, nước nóng thiên nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Xem thêm: Tổng hợp bài viết về luật khoáng sản
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh