2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp được quy định tại Luật thương mại 2005. Tuy nhiên, tranh chấp chỉ được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (sau đây gọi là thỏa thuận trọng tài) và thỏa thuận trọng tài này không thuộc các trường hợp thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu. Vậy thỏa thuận trọng tài vô hiệu bao gồm những trường hợp nào? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây.
Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các xung đột bằng việc đưa ra phán quyết trọng tài buộc các bên tôn trọng và thực hiện.
Trọng tài viên được hiểu là người được các bên lựa chọn hoặc được Trung tâm trọng tài hoặc Tòa án chỉ định để giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên tranh chấp và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Thứ hai, chủ thể giải quyết tranh chấp thương mại là các Trọng tài viên thực hiện thông qua Hội đồng trọng tài gồm một Trọng tài viên độc lập hoặc hội đồng trọng tài gồm nhiều trọng tài viên.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại đảm bảo sự kết hợp hai yếu tố: thỏa thuận và phán quyết.
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp đảm bảo tính bí mật. Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật trọng tài thương mại thì việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010 và Điều 3 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu như sau:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này. Đó là trường hợp thỏa thuận trọng tài được xác lập để giải quyết tranh chấp không thuộc các trường hợp sau: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
Thứ hai, người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Đây là trường hợp người xác lập thỏa thuận trọng tài không phải là người đại diện theo pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền. Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
Thứ ba, người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. Đây là trường hợp người xác lập thỏa thuận là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Quy định như vậy bởi thỏa thuận trọng tài phải dựa trên ý chí tự nguyện của các bên, bởi vậy chỉ những chủ thể có năng lực hành vi dân sự thì mới thể hiện ý chỉ đó một cách đầy đủ, chính xác.
Thứ tư, hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật trọng tài thương mại 2010. Theo đó, thỏa thuận trọng tài được xác lập dưới dạng điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản và các hình thức được coi là xác lập dưới dạng văn bản như fax, thư điện tử…. Nếu không đáp ứng được các điều kiện về hình thức này thì thỏa thuận trọng tài đó cũng sẽ bị vô hiệu.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép (Điều 4, Điều 132 Bộ luật dân sự 2015) trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu. Thỏa thuận trọng tài phải được xác lập dựa trên sự tự nguyện của các bên bởi vậy nếu một trong các bên bị lừa dối, đe dọa… thì thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. Cụ thể là thỏa thuận thuộc trường hợp quy định tại Điều 128 Bộ luật dân sự 2015.
Tóm lại, nếu các bên có thỏa thuận trọng tài nhưng lại thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu và khi đó tranh chấp sẽ không được giải quyết bằng trọng tài.
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh