2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
Ngày nay, ngoại tình không còn là một vấn đề xa lạ trong xã hội, đó là một trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn, tan vỡ hạnh phúc nhiều gia đình. Ngoại tình là chủ đề nóng, gây tranh cãi và nhiều người nhất trí rằng pháp luật cần có biện pháp xử lý thích đáng đối với những người ngoại tình, gây hậu quả tiêu cực cho gia đình và xã hội.
1. Hành vi “ngoại tình” là gì?
Thực chất, “ngoại tình” là cách gọi được mọi người sử dụng phổ biến trong đời sống, không phải là một thuật ngữ pháp lý và không xuất hiện trong các văn bản pháp luật.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, Ngoại tình có nghĩa là có quan hệ yêu đương bất chính khi đã có vợ hoặc chồng. Như vậy, vấn đề ngoại tình chỉ đặt ra khi 1 hoặc cả 2 bên đã có quan hệ hôn nhân hợp pháp với người khác. Nếu đã ly dị, hoặc quan hệ hôn nhân không hợp pháp, vấn đề này sẽ không được đặt ra.
Theo cách hiểu khác, ngoại tình đề cập đến việc một người đã kết hôn có hành vi tình dục với người khác không phải là người phối ngẫu của họ. Từ một góc độ khác, từ này cũng áp dụng cho một người độc thân có quan hệ tình dục với một người đã kết hôn.
Dưới góc độ pháp luật, ngoại tình là hành vi của người có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ chưa có chồng mà kết hôn. Cụ thể:
Khoản 7 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 định nghĩa: Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng.
Theo Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình theo pháp luật Việt Nam là “một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Đồng thời, tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình nêu rõ cấm hành vi: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ.”
Do đó, “ngoại tình” được xem là một hành vi vi phạm pháp luật.
Thậm chí, Bộ luật hình sự năm 2015 cũng quy định về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng là một tội danh xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình tại Điều 182.
Mặc dù, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 không quy định các chế tài đối với hành vi “ngoại tình” nhưng có thể áp dụng các hình thức xử lý được quy định trong một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Cụ thể:
- Hành vi “ngoại tình” sẽ bị xử phạt hành chính
Theo Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định mức phạt đối với hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng như sau:
“Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn.”
Theo quy định này, việc “ngoại tình” sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, tương đương với số tiền phạt là từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng. Mức phạt tiền này đã tăng so với Nghị định 110/2013/NĐ-CP (hết hiệu lực từ ngày 01/9/2020), chỉ phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo Khoản 1 Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP.
(2) Người có hành vi “ngoại tình” có thể phạm tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
Cụ thể, tại Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về hình phạt đối với tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”
Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...(theo Điểm 3.1 Thông tư 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC, có hiệu lực từ ngày 10/10/2001).
Như vậy, "ngoại tình" là một hành vi vi phạm pháp luật và người vi phạm sẽ bị phạt tiền, thậm chí có khả năng bị phạt tù lên đến 03 năm. Tuy nhiên, cần hiểu rõ tội này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi: (i) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng (làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…); (ii) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm (theo Điểm 3.2 Thông tư 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ).
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh