Không đăng ký kết hôn thì có phải ly hôn không?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:06 (GMT+7)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

MỤC LỤC

MỤC LỤC

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014  “Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Thực trạng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng không đăng ký kết hôn, mà một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, Tòa án thụ lý vụ án còn có quan điểm khác nhau trong việc xác định quan hệ pháp luật từ đầu giải quyết.

Theo nội dung mà Luật Hôn nhân và gia đình quy định thì nam, nữ chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn, mà một trong các bên có yêu cầu ly hôn, được Tòa án thụ lý đơn yêu cầu “ly hôn” để giải quyết chứ không phải “không công nhận quan hệ vợ chồng”. Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết các vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình,  Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết việc dân sự yêu cầu về hôn nhân và gia đình. Cả hai điều luật này, không có quy định cụ thể nào về thẩm quyền của Tòa án đối với yêu cầu “không công nhận quan hệ vợ chồng”.

1. Trường hợp nào không được công nhận quan hệ vợ chồng?

- Không công nhận quan hệ vợ chồng là chế độ pháp lý áp dụng đối với những trường hợp nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Việc chung sống như vợ chồng của nam, nữ có thể có con chung và tài sản chung. Tuy không trái pháp luật, nhưng việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, không được nhà nước khuyến khích. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

- Không công nhận quan hệ vợ chồng còn áp dụng đối với trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc đăng ký kết hôn tại cơ quan không có thẩm quyền và khi một hoặc cả hai bên nam, nữ yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án ra quyết định tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ, đồng thời huỷ Giấy chứng nhận kết hôn và thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Điều 53. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn

1. Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

Tại Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:

"Điều 14. Giải quyết hậu quả việc nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn:

1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn."

Đây là những trường hợp không thuộc diện kết hôn trái pháp luật hoặc kết hôn hợp pháp.

Để minh họa cho việc giải quyết ly hôn cho nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, Luật Hoàng Anh xin lấy ví dụ về bản án sau đây [1]:

Đầu tháng 9 năm 2018, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Y mở phiên tòa xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp hôn nhân” giữa nguyên đơn: bà Trần Thị M, sinh năm 1974 và bị đơn: ông Phạm Văn T, sinh năm 1969.  Năm 1990, bà M và ông T được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và chung sống với nhau tại thôn K, phường L, thành phố H, tỉnh Y nhưng không đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng của ông bà hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và cùng làm đơn ra tòa án đề nghị giải quyết.

Xét thấy, mặc dù ông T, bà M có đủ điều kiện kết hôn, có được nghe việc phổ biến pháp luật và tuyên truyền pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng vẫn không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định. Căn cứ điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định: “Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày luật này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003;...

Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”. Bởi vậy, Tòa án quyết định không công nhận quan hệ giữa bà M và ông T là vợ chồng.

           Do ông T và bà M không phải là vợ chồng nên việc giải quyết tranh chấp về tài sản được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Cụ thể trong vụ án này, ông T và bà M không đề nghị tòa án giải quyết về con chung, nhưng có đề nghị phân chia tài sản. Tài sản phân chia trong trường hợp này được xác định không phải là tài sản chung hợp nhất (như tài sản được hình thành trong hôn nhân) mà giải quyết tương tự như trường hợp hủy hôn nhân trái pháp luật. Tại khoản 3 Điều 17 Luật HN & GĐ quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật như sau: “…3. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”.

Hiện tại, bà M và ông T sống trên mảnh đất diện tích 191,1 m2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Phạm Văn T vào năm 2013. Nguồn gốc đất là do bố mẹ ông T cho bằng miệng. Tòa án không chấp nhận yêu cầu của bà M về việc chia đôi đất với lý do đây là tài sản riêng của ông T được bố mẹ cho riêng. Đối với tài sản trên đất gồm: Một ngôi nhà 1,5 tầng và công trình phụ là tài sản nằm trên diện tích đất 191,1 m2 trị giá là 150.144.500 đồng (xây dựng vào năm 2003 bằng tiền tiết kiệm, tiền đền bù khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của bà M, ông T và tiền bố mẹ ông T cho là 20.000.000 đồng), Tòa án xác định đây là tài sản chung nên chấp nhận chia đôi cho ông T và bà M mỗi người được một nửa giá trị. Giao cho ông T quản lý, sử dụng toàn bộ khối tài sản trên nhưng phải có nghĩa vụ trả cho bà M giá trị ½ tài sản chung bằng tiền là 75.072.250 đồng và tiền ách trích công sức là 60.000.000 đồng, cộng bằng 135.072.250 đồng.

Trong đời sống hiện nay vấn đề nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn vẫn đang diễn ra theo nhiều cách khác nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn, khởi kiện ra tòa án thì mới nhận ra quyền lợi của của mình không được bảo đảm như trong quan hệ vợ chồng. Bởi vậy, các bên nam nữ nên thực hiện đúng quy định của pháp luật, có như vậy mới bảo vệ quyền lợi cho bản thân mình, mà còn giúp cho xã hội ổn định và tốt đẹp hơn.

 

[1]  Nguyễn Thị Minh Ngọc - VKSND T.P Hưng Yên, “Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng”

 

Luật Hoàng Anh

Luật Sư Phạm Thị Thu Hà

Chuyên viên pháp lý Trịnh Thị Chình

Luật Sư Nguyễn Thị Ngàn

Luật Sư Vũ Khánh Hiếu

Luật Sư Nguyễn Thùy Dung

Thạc sĩ kinh tế Nguyễn Mai Hương

Luật Sư Lê Tiến Thành

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Diệu Quỳnh

Chuyên viên pháp lý Nguyễn Thị Thu Hiền

Luật Sư Đào Hồng Sơn

Luật sư NGUYỄN ĐÌNH HIỆP - Những con số biết nói

Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn pháp lý, Luật sư Nguyễn Đình Hiệp có sự am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật Việt Nam và triển khai thành công rất nhiều các vụ việc như:

2

Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại

2

Tư vấn cấp Giấy phép viễn thông cho doanh nghiệp Việt Nam

8

Tư vấn pháp lý thường xuyên cho các doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc. Tiêu biểu như Công ty CP Tập đoàn Bình Minh, Công ty CP DV Viễn thông Hải Phòng

10

Tư vấn, xử lý thu hồi công nợ và khởi kiện/khởi tố các đối tượng có nợ khó đòi

10

Tư vấn pháp lý đầu tư, giấy phép, chuyển nhượng các dự án khoáng sản. Tiêu biểu như Dự án khai thác Khoáng sản của Công ty khoáng sản An Vượng tại huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình (50ha).

15

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư mở rộng sản xuất. Tiêu biểu như Dự án sản xuất 50 triệu sản phẩm điện tử thanh toán Công ty TNHH ST Vina (Hàn Quốc); Dự án mở rộng quy mô sản xuất của Công ty TNHH RFTech Việt Nam lên 20 triệu đô la Mỹ;

20

Tư vấn hợp đồng chuyển giao công nghệ và thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ (hầu hết là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)

20

Tư vấn pháp lý dự án đầu tư bất động sản. Tiêu biểu như Dự án khu nghỉ dưỡng tại Vịnh Lan Hạ, thành phố Hải Phòng (30ha); Khu du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng Avana Mai Chau Hideway, tỉnh Hòa Bình (32ha)

30

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các lĩnh vực. Tiêu biểu như Dự án nhà máy sản xuất của Công ty Mass Well Limited, Công ty Modern Shine Limited tại Trung tâm công nghiệp GNP Yên Bình

300

Tư vấn hồ sơ công bố sản phẩm, hồ sơ phòng cháy chữa cháy, hồ sơ an toàn vệ sinh thực phẩm, đăng ký mã số mã vạch, đăng ký/thông báo website…

500

Tư vấn bảo hộ nhãn hiệu (thương hiệu), quyền tác giả, sáng chế

700

Tư vấn, thực hiện các thủ tục, giấy phép con như: Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cấp phép tạm trú cho người nước ngoài, Giấy phép trung tâm ngoại ngữ, Giấy phép ngành dược, Giấy phép quảng cáo…

2000

Tư vấn, thành lập các doanh nghiệp mới, chi nhánh, văn phòng đại diện trên cả nước; các thủ tục thay đổi đăng ký doanh nghiệp trên cả nước

3000

Tư vấn các vụ việc ly hôn, chia tài sản, quyền nuôi con; chia thừa kế; tranh chấp đất đai; tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và tố tụng hành chính.

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư vấn miễn phí ngay Chat với luật sư