2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì khi vợ chồng ly hôn mà không tự thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Để tiếp nối nội dung phần 1, trong phần 2 này Luật Hoàng Anh sẽ tập trung phân thích về trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
Theo Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn như sau:
"2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng".
Quy định tại Khoản 2 Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã được hướng dẫn cụ thể tại Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định: Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng sẽ xem xét đến các yếu tố sau để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia
Đây là tình trạng về năng lực pháp luật, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động để tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
Đây là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. Quy định này đảm bảo sự bình đẳng, tôn trọng công sức lao động của tất cả thành viên trong gia đình.
Lỗi của mỗi bên trong việc vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến ly hôn. Trong trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên
Quy định này có nghĩa là việc chia tài sản chung của vợ, chồng phải đảm bảo cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình.
Khi giải quyết việc chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dấn sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Các căn cứ trên đã đảm bảo cho việc phân chia tài sản chung được thực hiện một cách công bằng, cũng như đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng. Điều này đã đặt ra yêu cầu đối với cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết việc chia tài sản chung phải tiến hành điều tra, tìm hiểu mọi vấn đề liên quan đến tài sản, công sức đóng góp cũng như hoàn cảnh sống của các bên để phân chia cho công bằng, hợp lý.
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh