Các bệnh truyền nhiễm nhóm A là những bệnh nào?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:56:56 (GMT+7)

Các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định pháp luật.

1. Căn cứ pháp lý

Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.

Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm có khả năng gây bệnh truyền nhiễm.

Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm số 03/2007/QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 quy định các bệnh truyền nhiễm nhóm A như sau:

“Điều 3. Phân loại bệnh truyền nhiễm

1. Bệnh truyền nhiễm gồm các nhóm sau đây:

a) Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh.

Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A bao gồm bệnh bại liệt; bệnh cúm A-H5N1; bệnh dịch hạch; bệnh đậu mùa; bệnh sốt xuất huyết do vi rút Ê - bô - la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg); bệnh sốt Tây sông Nin (Nile); bệnh sốt vàng; bệnh tả; bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do vi rút và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh;”

Theo đó, nhóm A là nhóm những căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất, cần nhanh chóng phòng, chống những căn bệnh đó. Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh.

Bộ trưởng Bộ Y tế có thẩm quyền quyết định điều chỉnh, bổ sung danh mục bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A sao cho phù hợp với mức độ nghiêm trọng của bệnh.

2. Những căn bệnh truyền nhiễm cụ thể thuộc nhóm A

Theo quy định trên, Nhóm A gồm 10 loại bệnh gồm:

- Bệnh bại liệt;

Bệnh bại liệt (Poliomyelitis) là một bệnh nhiễm vi rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi rút Polio (Poliovirus) gây nên, có thể lan truyền thành dịch. Bệnh được nhận biết qua biểu hiện của hội chứng liệt mềm cấp (Acute Flaccid Paralysis: AFP). Vi rút Polio sau khi vào cơ thể sẽ đến hạch bạch huyết, tại đây một số ít vi rút Polio xâm nhập vào hệ thống thần kinh trung ương gây tổn thương ở các tế bào sừng trước tủy sống và tế bào thần kinh vận động của vỏ não.

- Bệnh cúm A-H5N1;

Bệnh cúm gia cầm lây sang người A(H5N1) là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút cúm A(H5N1) gây ra. Bệnh lây qua đường hô hấp, qua tiếp xúc với vật dụng bị nhiễm mầm bệnh, tiếp xúc và sử dụng gia cầm ốm, chết do nhiễm cúm A(H5N1), ăn thịt gia cầm, sản phẩm gia cầm chưa nấu chín kỹ. Bệnh có biểu hiện: sốt, ho, mệt mỏi, đau người, đau cơ, đau họng. Bệnh diễn biến nhanh và có thể dẫn đến tử vong, hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh cho người.

- Bệnh dịch hạch;

Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm tối nguy hiểm, tiến triển cấp tính, lây lan mạnh với tỷ lệ tử vong cao, được xếp vào diện phải kiểm dịch và khai báo quốc tế. Bệnh do trực khuẩn Yersinia pestis gây ra, lưu hành trong quần thể động vật thuộc những loài gặm nhấm (chủ yếu là chuột) và bọ chét ký sinh trên chúng. Từ đó, bệnh lây truyền sang người qua trung gian bọ chét nhiễm khuẩn. Ở Việt Nam, bệnh dịch hạch thường phát triển mạnh vào mùa khô, phù hợp với mùa phát triển của chuột và bọ chét. Tuy nhiên, dịch cũng được ghi nhận vào các thời gian khác trong năm kể cả trong mùa mưa.

- Bệnh đậu mùa;

Bệnh đậu mùa là bệnh nhiễm vi rút toàn thân với đặc điểm phát ban ở da. Bệnh bắt đầu đột ngột với sốt cao 400C, khó chịu, đau đầu, mệt lử, đau lưng dữ dội, có lúc đau bụng và nôn. Sau 2 - 4 ngày, nhiệt độ giảm và xuất hiện ban. Ban phát triển qua các giai đoạn nối tiếp nhau: dát (macula), sần (papula), mụn nước (vesicula), mụn mủ (pustule), sau cùng đóng vẩy và kết thúc vào tuần thứ 3, thứ 4 sau khi phát ban. Do tổn thương của ban sâu dưới tầng tế bào sinh sản của thượng bì nên khi tróc vẩy đậu sẽ để lại sẹo, nhiều nhất ở mặt, được gọi là mặt rỗ. Thông thường sốt tăng cùng với sự tiến triển của ban đến mụn mủ. Ban xuất hiện trước tiên ở mặt, sau đó đến thân và chân tay. Ban tập trung mọc ở mặt, chân tay nhiều hơn ở thân. Người đã được chủng đậu trước đây, nếu bị nhiễm vi rút đậu mùa có thể không bị bệnh hoặc có biểu hiện triệu chứng toàn thân nhẹ, phát ban không điển hình và thường không có các giai đoạn tiến triển của ban. Có 2 thể dịch tễ học lâm sàng của bệnh đậu mùa là bệnh đậu mùa nhẹ (alastrim) và bệnh đậu mùa nặng (smallpox).

- Bệnh sốt xuất huyết do vi rút Ê - bô - la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg);

Bệnh có chung hình ảnh của nhiễm vi rút cấp tính, khởi phát đột ngột với sốt cao kéo dài, đau đầu, đau cơ vùng bụng và ngực, viêm họng, nôn hoặc buồn nôn, tiêu chảy cấp, xuất huyết da niêm mạc (dấu hiệu dây thắt, ban xuất huyết hoặc dát sần, chảy máu cam) và xuất huyết phủ tạng (nôn, ỉa ra máu...). Thể nặng điển hình thường có tổn thương gan, suy thận, viêm tổ chức não; có thể suy sụp đa phủ tạng, tràn dịch màng phổi và sốc. Bệnh nhân Lassa có thể sốt kéo dài thành từng đợt kiểu sốt rét cơn và biến chứng điếc dây VIII ở khoảng 25% số bệnh nhân.

Bệnh Lassa: gây ra do vi rút Lassa (Lassavirus), thuộc họ Arenaviridae, có quan hệ kháng nguyên với các vi rút gây sốt xuất huyết ở khu vực Mỹ la tinh như Junin, Machupo. Lõi nhân ARN 2 sợi đơn (S và L) 9,5 kb. Hạt vi rút hình cầu, đường kính 50-300 nm, nucleocapsid khoảng 78 kD và vỏ lipoprotein 2 lớp liên quan tới kháng nguyên gây bệnh của vi rút. Vi rút nhạy cảm với các hóa chất có chứa nhóm chứcclo, phenol, chất tẩy và xà phòng; bị tiêu diệt dưới tác động của pH axit hoặc kiềm, tia cực tím, bức xạ gamma và nhiệt độ trên 56 độ C. Ở nhiệt độ phòng (25 độ C), vi rút có thể tồn tại vài ngày.

Bệnh Ebola-Marburg: gây bởi 2 giống vi rút là Ebolavirus và Marburgvirus, đều thuộc họ Filoviridae có thể gây bệnh sốt xuất huyết. Giống Ebolavirus hiện có 4 loài lấy theo tên 4 địa điểm phân lập; còn giống Marburgvirus chỉ duy nhất có 1 loài, bao gồm 6 phụ loài. Đây là những vi rút lõi ARN sợi đơn, âm, khoảng 15-20 kb. Hạt virion hình sợi tròn (đường kính khoảng 80 nm x 1100 nm), bao bọc bởi vỏ cấu trúc lipoprotein nguồn gốc màng tế bào chủ và nuclecapsid bản chất glyco-lipoprotein.

Các vi rút có thể tồn tại trong nhiều ngày ở môi trường chất thải bệnh nhân hoặc bề mặt trung tính ở nhiệt độ phòng, tuy nhiên bị diệt bởi nhiệt độ trên 560C trong 60 phút. Hóa chất nhóm clo, chất oxi hóa, muối kim loại nặng, chất tẩy và xà phòng cũng như tia cực tím, bức xạ gamma đều có thể diệt được vi rút ở những liều lượng thông thường.

- Bệnh sốt Tây sông Nin (Nile);

Sốt Tây sông Nin là một bệnh động vật lây sang người, do muỗi truyền, lưu hành phổ biến ở hầu hết các quốc gia thuộc Châu Phi, Nam Âu, vùng Trung Đông, Tây Á, Châu Úc và Bắc Mỹ. Bệnh thường gặp hơn ở vùng nông thôn đồng bằng và bán sơn địa, nơi lưu trú của các loài thú móng guốc họ ngựa, các loài chim hoang dã như quạ, chim sẻ, ngỗng trời... bệnh cũng có thể gặp cả ở vùng đô thị. Việt Nam và các quốc gia khu vực Đông Nam Á tới nay chưa có ca bệnh được công bố.

Bệnh khởi phát đột ngột với sốt cao trên 38,50C, kéo dài khoảng 7 ngày, sốt kiểu 2 pha (hình yên ngựa), đi cùng với các triệu chứng đau đầu, đau cơ, đau khớp, thường có ban đỏ dát sần hoặc ban kiểu sởi ở mặt và toàn thân; đôi khi có biểu hiện xuất huyết da, niêm mạc, nôn hoặc buồn nôn, tiêu chảy cấp, đau họng và ho, viêm kết mạc và sợ ánh sáng.

Một tỷ lệ nhất định bệnh nhân có biến chứng viêm màng não - viêm não, đôi khi có liệt mềm, thay đổi tâm tinh thần gặp ở 1% ca bệnh, thường rơi vào giai đoạn 2 của đợt sốt. Tỷ lệ tử vong chung thường dưới 5% số ca nhập viện, tuy nhiên trong một số vụ dịch có thể lên tới 18%, thường do hội chứng não, hôn mê và tử vong.

- Bệnh sốt vàng;

Bệnh nhân có sốt cao, khởi phát đột ngột, kèm rét run, đau đầu, đau cơ toàn thân, mặt đỏ xung huyết, buồn nôn và nôn, mạch chậm và yếu không tương xứng với tăng thân nhiệt, có vàng da nhẹ, bạch cầu máu ngoại vi giảm.

Giai đoạn toàn phát có dấu hiệu xuất huyết niêm mạc (chảy máu cam, máu mũi, nôn ra máu hoặc đi ngoài phân đen). Trường hợp nặng, bệnh nhân tổn thương nhiều phủ tạng, suy gan, suy thận, trụy tim mạch, vàng da vừa hoặc nặng, sốc nhiễm khuẩn. Tỷ lệ tử vong ở thể nặng 20% tới 50%, các thể khác dưới 5%.

Bệnh lây theo đường máu do côn trùng đốt và hút máu người và động vật nhiễm bệnh, sau đó đốt, hút máu và truyền vi rút cho người lành. Loài muỗi Aedes được coi là véc tơ chính của vi rút sốt vàng, đồng thời cũng là ổ chứa mầm bệnh.

- Bệnh tả;

Bệnh nhân có các triệu chứng nhiễm khuẩn cấp tính đường tiêu hoá bắt đầu là đầy bụng và sôi bụng; tiếp theo đó tiêu chảy, lúc đầu có phân lỏng, sau chỉ toàn nước. Bệnh nhân đi tiêu chảy liên tục, nhiều lần, phân toàn nước, nước phân đục như nước vo gạo. Số lần tiêu chảy và số lượng nước mất thay đổi tùy từng trường hợp nặng nhẹ khác nhau, có thể lên 40-50 lần/ngày, mất 5-10 lít nước/ngày. Kèm theo bệnh nhân có nôn, lúc đầu nôn ra thức ăn, sau chỉ toàn nước trong hoặc vàng nhạt. Bệnh nhân không đau bụng, không sốt, người mệt lả, có thể bị chuột rút, biểu hiện tình trạng mất nước nhẹ đến nặng như: khát nước, da khô, nhăn nheo, hốc hác, mắt trũng, mạch nhanh, huyết áp hạ, có khi không đo được, tiểu tiện ít hoặc vô niệu, chân tay lạnh...

Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá, qua đường nước bị nhiễm bẩn bởi phân người hoặc phân động vật và qua thực phẩm bị nhiễm các tác nhân gây bệnh trong quá trình chế biến hoặc bảo quản, bởi nước bẩn, qua bàn tay bẩn và ruồi, nhặng  nhiễm phảy khuẩn tả.

- Bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do vi rút;

Bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do vi rút là bệnh viêm cấp tính nguy hiểm đường hô hấp với các tổn  thương nặng ở phổi làm suy hô hấp nhanh, bệnh nhân đồng thời bị nhiễm độc các cơ quan nội tạng bởi độc tố của vi rút SARS-Corona.

Căn nguyên nhiễm SARS: Vi rút SARS - Corona (SARS - CoV) là một biến thể của Corona vi rút, thuộc họ Coronaviridae. Khi gây nên bệnh SARS, thực chất Coronavirus đã biến đổi và mang gen độc lực mạnh, đường kính hạt vi rút 70 - 120 nm. SARS - CoV có cấu trúc phân tử giống 60-70% với cấu trúc của Coronavirus kinh điển, tuy nhiên độc lực mạnh hơn rất nhiều lần, độc tố của SARS - CoV làm liệt cơ co bóp phế nang, hủy hoại mạnh tế bào đường hô hấp, gây rối loạn các men chuyển hoá và làm ngộ độc các cơ quan nội tạng.

SARS - CoV có thể sống sót bên ngoài cơ thể tương đối bền vững, nhất là ở nhiệt độ thấp, thời tiết mát, lạnh. Vi rút tồn tại 3 - 4 ngày trên các vật liệu thông thường như vải, gỗ, giấy... lâu hơn vài ngày trong các hạt nước bọt và chất thải của bệnh nhân. Vi rút giữ nguyên độc lực trong 4 - 5 ngày ở 4 - 200C, tuy nhiên nhanh chóng mất khả năng lây nhiễm ở 560C/30 phút. Các hoá chất khử trùng thông thường và tia cực tím diệt vi rút trong 60 phút.

Nhưng với đặc tính mãnh độc cao của SARS - CoV nên trong qúa trình khử trùng, tẩy uế môi trường vẫn được đặt ở mức độ cao nhất trong công tác xử lý môi trường ổ dịch.

Phương thức lây truyền:

i) Lây truyền trực tiếp người - người do các giọt bắn cực nhỏ qua đường hô hấp (ho, hắt hơi, nói, giao tiếp gần).

ii) Có thể qua các chất thải, dịch đờm dãi, dịch đường tiêu hoá từ bệnh nhân.

iii) Gián tiếp: Qua các vật dụng, tay nắm cửa, khăn lau cá nhân từ người đang mắc bệnh.

- Các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh.

Các bệnh này phải là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm.

Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm có khả năng gây bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, các nhà khoa học chưa xác định được tác nhân chính xác gây nên bệnh truyền nhiễm nguy hiểm này.

Xem thêm: Tổng hợp bài viết Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm

Luật Hoàng Anh

 

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư