2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Theo Điều 118 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000, sửa đổi năm 2010, năm 2019, các chủ thể kinh doanh bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sau được chuyển lợi nhuận, tài sản ra nước ngoài:
- Doanh nghiệp bảo hiểm có 100% vốn đầu tư nước ngoài
- Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có 100% vốn đầu tư nước ngoài
- Bên nước ngoài trong doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
- Bên nước ngoài trong doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài được chuyển toàn bộ số lợi nhuận thuộc sở hữu của mình ra nước ngoài, sau khi đã trích lập các quỹ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, do việc trách lập các quỹ và thực hiện nghĩa vụ tài chính là trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải thực hiện ở Việt Nam. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm chuyển hết lợi nhuận thuộc sở hữu của mình ra nước ngoài thì không còn khoản tiền để thực hiện các nghĩa vụ này nữa, doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Tương tự với trường hợp trên, bên nước ngoài trong doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh được chuyển ra nước ngoài số lợi nhuận được chia sau khi đã trích lập quỹ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên cần chú ý, phần được chuyển ra nước ngoài không phải là toàn bộ lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm, mà là phần được chia (do liên doanh).
Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có 100% vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài trong doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, bên nước ngoài trong doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh được chuyển tài sản ra nước ngoài chỉ trong trường hợp đã thanh lý và kết thúc hoạt động tại Việt Nam. Nguyên nhân do nếu các chủ thể này chuyển tài sản ra nước ngoài khi vẫn còn hoạt động tại Việt Nam thì rất khó để quản lý nguồn vốn, tài sản của doanh nghiệp, dễ xảy ra các trường hợp trốn thuế, rửa tiền mà cơ quan Nhà nước không thể giám sát, kiểm tra một cách rõ ràng. Do đó, có thể nói, chỉ khi các chủ thể ngừng hoạt động tại Việt Nam (được chấp thuận của Bộ Tài chính) thì mới có thể chuyển tài sản ra nước ngoài.
Ngoài ra, hoạt động chuyển tiền, các tài sản khác ra nước ngoài phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, không được thực hiện theo pháp luật nước nơi tiếp nhận tiền, tài sản.
Xem thêm: Tổng hợp bài viết về Luật kinh doanh bảo hiểm
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh