2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Theo Khoản 1 Điều 61 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ:
“Điều 61. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
1. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài là tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe.”
Theo đó:
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, mà dự phòng nghiệp vụ được trích ra từ phí bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm, để doanh nghiệp bảo hiểm này thực hiện các nghĩa vụ nhất định trong thời hạn bảo hiểm.
- Nguồn vốn nhàn rỗi tồn tại đối với cả doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, không có loại hình nghiệp vụ nào không phát sinh vốn nhàn rỗi
- Nguồn vốn nhàn rỗi được coi là phần không được sử dụng để thực hiện nghĩa vụ bồi thường bảo hiểm trong kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài, nên doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư, phát triển để đảm bảo quyền lợi cho bên mua bảo hiểm hoặc phát triển dự phòng nghiệp vụ.
Thứ nhất, là căn cứ xác định bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài.
Theo Khoản 2 Điều 61 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ, khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài không thấp hơn 25% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Như vậy, khoản tiền được sử dụng để dự phòng nghiệp vụ đối với các chủ thể kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ (doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ), tức khoản bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ tổi thiểu phải bằng 25% tổng dự phòng nghiệp vụ, thì nguồn vốn nhàn rỗi tối đa chiếm 75% quỹ dự phòng nghiệp vụ. Các khoản tiền này được tách ra hoàn toàn khỏi quỹ dự phòng nghiệp vụ và được gửi tại tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (ngân hàng) cho tới khi hết thời hạn hợp đồng bảo hiểm hoặc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Việc phân chia phần trăm như vậy đảm bảo doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài có đủ số tiền để thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với bên mua bảo hiểm, thay vì trích quá nhiều cho nguồn vốn nhàn rỗi (trường hợp số tiền thực hiện nghĩa vụ quá ít và không đủ để thực hiện nghĩa vụ).
Thứ hai, là căn cứ xác định khoản tiền trả bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.
Theo Khoản 3 Điều 61 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ, khoản tiền dùng để trả tiền bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm sức khỏe không thấp hơn 5% tổng dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Tương tự với trường hợp trên, trong trường hợp này, nguồn vốn nhàn rỗi không được chiếm quá 95% của quỹ dự phòng nghiệp vụ. Nguyên nhân khoàn tiền dùng để bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe có thể chiếm ít phần trăm hơn so với khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, chi nhánh nước ngoài, là do giá trị bồi thường và rủi ro trong hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ lớn hơn.
Xem thêm: Tổng hợp bài viết về Luật kinh doanh bảo hiểm
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh