2
Tư vấn mở chuỗi kinh doanh nhượng quyền thương mại
MỤC LỤC
Theo Điều 70 Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09/12/2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010, năm 2019: Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua bảo hiểm.
Thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ bao gồm: Thành viên sáng lập và thành viên khác. Trong đó, các thành viên có thể là cá nhân hoặc là tổ chức, hoạt động trên cùng một lĩnh vực, ngành nghề, trên cùng một địa bàn (do tổ chức bảo hiểm tương hỗ chỉ hoạt động trên một địa bàn nhất định).
+ Thành viên sáng lập: Cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cam kết mua bảo hiểm ngay sau khi tổ chức bảo hiểm tương trợ được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động
+ Các thành viên khác: Cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cam kết mua bảo hiểm trong quá trình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương trợ (trừ trường hợp của thành viên sáng lập)
Thời điểm phát sinh tư cách thành viên là thời điểm cá nhân, tổ chức cam kết mua bảo hiểm bằng văn bản, trở thành bên mua bảo hiểm của tổ chức bảo hiểm tương hỗ, dẫn đến phát sinh các quyền và nghĩa vụ. Ngược lại, các quyền và nghĩa vụ của thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ kết thúc khi thành viên này chấm dứt tư cách thành viên, trừ trường hợp Điều lệ của tổ chức bảo hiểm tương hỗ và pháp luật có quy định khác.
Theo Khoản 1 Điều 10 Nghị định số 18/2005/NĐ-CP ngày 24/02/2005 của Chính phủ, tư cách thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ chấm dứt khi xảy ra 01 trong 03 trường hợp sau:
Thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ không chỉ là chủ sở hữu của tổ chức bảo hiểm mà còn là bên mua bảo hiểm trong quan hệ bảo hiểm mà tổ chức bảo hiểm tương hỗ là bên nhận bảo hiểm. Theo đó, hợp đồng bảo hiểm là căn cứ tất yếu để xác định tư cách thành viên của các thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Mà hợp đồng bảo hiểm luôn có thời hạn. Hết thời hạn mà không được giao kết hợp đồng bảo hiểm mới thì tổ chức, cá nhân không còn là bên mua bảo hiểm của tổ chức bảo hiểm tương hỗ, tức cũng mất tư cách thành viên.
Trường hợp chuyển nhượng hợp đồng theo quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân chuyển nhượng trách nhiệm và quyền của bên mua bảo hiểm cho một chủ thể khác, chủ thể này trở thành thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ (nếu thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, ngành nghề, địa bàn hoạt động), còn bên mua bảo hiểm ban đầu (chủ thể nhượng hợp đồng) mất tư cách thành viên.
a. Cá nhân
Cá nhân chấm dứt sự tồn tại khi chết:
- Chết sinh học: Tử vong
- Chết pháp lý: Chết theo quyết định tuyên bố chết ở Tòa án
Khi chấm dứt sự tồn tại thì cá nhân không còn tư cách thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ.
b. Tổ chức
Tổ chức chấm dứt sự tồn tại trong trường hợp:
- Giải thể: Chấm dứt sự tồn tại khi có đủ khả năng thanh toán
- Phá sản: Chấm dứt sự tồn tại khi mất khả năng thanh toán
- Sáp nhập: Chấm dứt sự tồn tại khi doanh nghiệp được sáp nhập vào một doanh nghiệp khác
- Hợp nhất: Chấm dứt sự tồn tại khi 02 hoặc nhiều doanh nghiệp hợp nhất vào thành một doanh nghiệp mới
- Chấm dứt hoạt động: Dừng hoạt động vô thời hạn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Nếu Điều lệ tổ chức bảo hiểm tương hỗ có quy định các trường hợp chấm dứt tư cách thành viên khác, ví dụ như “vi phạm quy định trong Điều lệ thì chấm dứt tư cách thành viên” thì các thành viên phải tuân thủ theo Điều lệ và chấm dứt tư cách thành viên nếu thuộc các trường hợp đó.
Theo Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 18/2005/NĐ-CP ngày 24/02/2005 của Chính phủ, trường hợp đặc biệt không được chấm dứt tư cách thành viên là: Thành viên sáng lập không được đơn phương chấm dứt tư cách thành viên trong thời hạn 03 năm kể từ khi tổ chức bảo hiểm tương hỗ được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động (trừ trường hợp Điều lệ tổ chức bảo hiểm tương hỗ có quy định khác). Nguyên nhân của trường hợp đặc biệt này do tổ chức bảo hiểm tương hỗ có 03 năm giai đoạn đầu để phát triển số lượng thành viên, nếu mất các thành viên sáng lập, tổ chức bảo hiểm tương hỗ có thể không duy trì đủ số lượng thành viên để hoạt động cũng như nguồn thu từ phí bảo hiểm của các thành viên này. Ngoài ra, các thành viên sáng lập nắm rõ mục đích thành lập và phát triển của tổ chức bảo hiểm tương hỗ nếu các thành viên này mất tư cách thành viên thì tổ chức bảo hiểm tương hỗ khó có thể hoạt động theo mục đích, quy trình phát triển ban đầu.
Theo Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 18/2005/NĐ-CP ngày 24/02/2005 của Chính phủ, việc giải quyết quyền lợi và tư cách thành viên khi chấm dứt tư cách thành viên căn cứ vào:
- Điều lệ của tổ chức bảo hiểm tương hỗ
- Hợp đồng bảo hiểm được giao kết giữa thành viên đã chấm dứt tư cách thành viên và tổ chức bảo hiểm tương hỗ
Xem thêm: Tổng hợp bài viết về Luật kinh doanh bảo hiểm
Luật Hoàng Anh
Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh