Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ?

Thứ ba, 31/01/2023, 16:42:10 (GMT+7)

Chấm dứt nghĩa vụ được hiểu là chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đó nữa

Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật. Điều 372 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các trường hợp làm chấm dứt nghĩa vụ như sau:

Điều 372. Căn cứ chấm dứt nghĩa vụ

Nghĩa vụ chấm dứt trong trường hợp sau đây:

1. Nghĩa vụ được hoàn thành;

2. Theo thỏa thuận của các bên;

3. Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ;

4. Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác;

5. Nghĩa vụ được bù trừ;

6. Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một;

7. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ đã hết;

8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;

9. Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển giao cho pháp nhân khác;

10. Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác;

11. Trường hợp khác do luật quy định”

1.Khái niệm

-Chấm dứt nghĩa vụ được hiểu là việc một người có nghĩa vụ phải giao một tài sản hoặc thực hiện một công việc nhằm đáp ứng lợi ích của bên có quyền sẽ không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Việc chấm dứt nghĩa vụ sẽ giải phóng cho bên có nghĩa vụ không phải tiếp tục thực hiện một nghĩa vụ mà không bị xem là vi phạm pháp luật, và không phải chịu bất kỳ chế tài nào. Nghĩa vụ chấm dứt đồng nghĩa với việc chấm dứt mối quan hệ nghĩa vụ đã được các bên xác lập trước đó, theo đó, bên có quyền không có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ cũng không cần tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền.

2.Các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ

Quan hệ nghĩa vụ phát sinh dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định, vì vậy, nó không thể tự nhiên chấm dứt mà cũng phải chấm dứt dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định. Căn cứ vào quy định trên, có thể thấy pháp luật quy định về 11 căn cứ làm chấm dứt nghĩa vụ, cụ thể:

-Một là: Nghĩa vụ được hoàn thành. Nghĩa vụ được coi là hoàn thành khi bên có nghĩa vụ đã hoàn thành xong nghĩa vụ đó theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Nếu trong trường trường hợp nghĩa vụ mới chỉ được thực hiện một nửa mà nửa còn lại bên có quyền miễn cho bên có nghĩa vụ thì cũng được xem là đã hoàn thành. Kể cả trong trường hợp bên có quyền chậm tiếp nhận nghĩa vụ thì nghĩa vụ vẫn được xem là đã hoàn thành, vì bên có nghĩa vụ đã thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ theo đúng thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định pháp luật.

-Hai là: Theo thỏa thuận của các bên. Thỏa thuận là sự thống nhất ý chí của các bên về việc chấm dứt nghĩa vụ. Nghĩa vụ sẽ chấm dứt kể từ thời điểm thỏa thuận của các bên có hiệu lực pháp luật. Dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận trong việc xác lập, thay đổi chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các chủ thể, pháp luật tôn trọng thỏa thuận của các bên về việc chấm dứt nghĩa vụ.  Tuy nhiên, thỏa thuận đó không được xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể khác, ảnh hưởng đến lợi ích chung của Nhà nước và cộng đồng.

-Ba là: Bên có quyền miễn việc thực hiện hiện nghĩa vụ. Là sự thể hiện ý chí của bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ về việc không yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ với mình. Việc thực hiện nghĩa vụ nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích của bên có quyền, do đó, họ có thể từ bỏ lợi ích của mình bằng cách miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên có nghĩa vụ. Nghĩa vụ chấm dứt khi kể từ thời điểm người có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ.

-Bốn là: Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác. Khi các bên thỏa thuận thay thế nghĩa vụ ban đầu bằng nghĩa vụ khác nghĩa vụ ban đầu chấm dứt. Ví dụ: Các bên thỏa thuận thay thế nghĩa vụ trả tiền bằng nghĩa vụ trả vật, thì nghĩa vụ trả tiền chấm dứt. 

-Năm là: Nghĩa vụ được bù trừ. Bù trừ nghĩa vụ được hiểu là cả hai bên đều có nghĩa vụ cùng loại với nhau, đến thời hạn thì bù trừ nghĩa vụ cho nhau, tức không ai phải thực hiện nghĩa vụ với bên còn lại. Nếu cả hai nghĩa vụ có giá trị ngang nhau thì nghĩa vụ xem chấm dứt sau khi bù trừ. Nếu giữa hai nghĩa vụ có sự chênh lệch thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó. 

-Sáu là: Bên có nghĩa vụ và bên có quyền hòa làm một. Là trường hợp bên có nghĩa vụ trở thành bên có quyền trong nghĩa vụ đó. Ví dụ: pháp nhân sáp nhập với nhau. 

-Bảy là: Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ đã hết. Là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó, thì người có nghĩa vụ dân sự được miễn thực hiện nghĩa vụ dân sự đó. Khi một chủ thể tham gia quan hệ dân sự và phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó, thì phải thực hiện trong một quãng thời gian nhất định. Nếu kết thúc thời hạn đó thì nghĩa vụ dân sự chấm dứt. 

-Tám là: Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện. Việc thực hiện nghĩa vụ luôn gắn với nhân thân của chủ thể, tức chủ thể phải tồn tại, hoạt động được thì mới có thể thực hiện nghĩa vụ. Do đó, khi bên có nghĩa vụ là cá nhân đã chết, pháp nhân đã chấm dứt tồn tại thì nghĩa vụ cũng chấm dứt. Ví dụ: nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi bên có nghĩa vụ cấp dưỡng chết.

-Chín là: Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển giao cho pháp nhân khác. Trong trường hợp quyền yêu cầu gắn với nhân thân của cá nhân hoặc pháp nhân mà theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các bên, khi cá nhân chết hoặc pháp nhân chấm dứt quyền yêu đó không để lại di sản thừa kế hoặc không được phép chuyển giao thì quan hệ nghĩa vụ cũng chấm dứt[1].

-Mười là: Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác. Với tính chất không thể thay thế cho nhau, bởi vật đặc định được phân biệt rõ ràng thông quan ký hiệu, hình dáng, chất liệu, đặc điểm,…Nên khi chuyển giao vật đặc định thì phải chuyển giao đúng vật đó. Khi vật đặc định không còn thì nghĩa vụ chuyển giao vật đặc định chấm dứt. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích của bên có quyền các bên phải thỏa thuận thay thế nghĩa vụ khác, nếu không thì bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

-Mười một là: Trường hợp khác do luật quy định. Là các trường hợp quy định trong luật khác, hoặc dự liệu các tình huống xảy ra trong tương lai là căn cứ chấm dứt nghĩa vụ, mà tại thời điểm hiện tại pháp luật không lường trước được.

Xem thêm: Tổng hợp các bài viết hỏi đáp Luật Dân sự

Luật Hoàng Anh

[1]PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS.Trần Thị Huệ,(2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”,Nxb.Công an nhân dân

Dịch vụ pháp lý

Để nhận tin tức và quà tặng từ Luật Hoàng Anh

Đăng ký email

Số điện thoại nhận tin

© Bản quyền thuộc về -Luật Hoàng Anh- Mọi sự sao chép phải được sự chấp thuận của Luật Hoàng Anh bằng văn bản.
Lên đầu trang zalo.png messenger.png 0908 308 123
Tư  vn  min  phí  ngay Chat  vi  lut  sư